phụ nữ Ukraine, Lager của tình nguyên viên người Pháp, và những Lager
khác chúng tôi không biết. Riêng Lager của chúng tôi (Judenlager,
Vernichtungslager, Kazett) đã cung cấp khoảng mười nghìn lao động thuộc
tất cả các quốc tịch ở châu Âu; chúng tôi là nô lệ của nô lệ, ai cũng có thể
sai bảo, tên chúng tôi chỉ là những con số xăm trên tay và may trên ngực áo.
Tháp Các bua dựng lên giữa Buna, đỉnh của nó lẫn vào đám sương mù, ít
khi nhìn thấy được. Chính chúng tôi đã xây nên nó. Những viên gạch của nó
được gọi là Ziegel, brique, tegula, cegli, kamenny, brick, téglak, và sự căm
thù đã gắn chúng lại. Sự căm ghét và bất hòa, giống như tháp Babel, và
chính vì thế chúng tôi gọi nó là Babelturm, Bobelturm, chúng tôi căm ghét
giấc mơ thống trị của những tên chủ chất chứa trong tháp, sự chà đạp lên
Chúa, lên con người, lên những con người chúng tôi.
Hôm nay cũng vậy, giống như trong các câu chuyện cổ tích cũ, tất cả chúng
tôi và cả bọn Đức nữa đều cảm nhận được một lời nguyền rủa không siêu
việt thần thánh nhưng hiện hữu và sâu xa đang treo lơ lửng trên ngọn tháp
ngạo mạn, xay trên một mớ ngôn ngữ hỗn độn và vươn thẳng lên trời thách
thức như một lời nguyền bằng đá.
Như tôi đã kể, cái nhà máy Buna mà bọn Đức chuẩn bị trong bốn năm, hành
hạ và giết chúng tôi nhiều không đếm xuể ấy chưa bao giờ sản xuất được dù
chỉ một cân cao su nhân tạo.
Nhưng hôm nay những bãi bùn vĩnh cửu phía trên đóng một lớp váng dầu
kia đang phản chiếu một bầu trời trong xanh. Ống, thanh ngang, lò hơi vẫn
còn lạnh cái giá lạnh ban đêm đang nhỏ sương. Nền đất dốc của mỏ, những
đống than, những khối xi măng đang bốc hơi lên trong lớp sương mù nhẹ.
Hôm nay là một ngày đẹp trời. Chúng tôi nhìn quanh, như người mù thấy lại
ánh sáng, chúng tôi nhìn nhau. Chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy nhau dưới
ánh mặt trời: ai đó mỉm cười. Giá như mà không bị đói!