nói bất cứ điều gì cũng không còn tác dụng nữa!). Tôi còn tám
mươi quan (tiền vàng) đủ sống nốt đến cuối tháng, nên một bữa
trưa xoàng xĩnh không quá mười lăm quan, nếu tôi cắt khoản cà
phê trong hai tuần sau đó, thì tôi cũng xoay xở tạm đủ.
Tôi trả lời là tôi sẽ gặp cô bạn của tôi - tất nhiên là bằng thư -
tại tiệm ăn Foy-ot vào ngày thứ năm hồi 12 giờ 30. Nàng không
còn trẻ như tôi vẫn tưởng, và về hình thức mà nói, nàng có vẻ bệ
vệ chứ không quyến rũ. Thực ra nàng là một phụ nữ đã tứ tuần
(cái tuổi duyên dáng chứ không làm cho người ta bỗng u mê
đến gặp tai nạn ngay lần gặp đầu tiên được), và nàng khiến cho
tôi có cảm tưởng rằng nàng có hàm răng trắng, to, đều hơn mức
cần thiết để dùng vào bất cứ mục đích thực tiễn nào. Nàng nói
nhiều, nhưng vì hình như nàng có ý nói về tôi, nên tôi sẵn sàng
là một người nghe rất chăm chú. Tôi bàng hoàng khi thực đơn
được mang tới, bởi vì giá các món ăn cao hơn tôi dự tính rất
nhiều. Nhưng nàng đã nói cho tôi yên tâm:
— Em không bao giờ ăn bất cứ thứ gì vào bữa trưa cả.
— Ồ, đừng nói thế. – Tôi đáp vẻ hào phóng.
— Em không bao giờ ăn quá một món cả. Em cho rằng ngày
nay người ta ăn nhiều quá đấy. Có lẽ, em chỉ ăn một con cá nhỏ
thôi. Không biết họ có con cá hồi nào không?
Chà, lúc đó hãy còn sớm chưa đến mùa cá hồi, và lại cũng
không thấy có ghi trên thực đơn, nhưng tôi vẫn hỏi người hầu
bàn xem có con nào không. Có, một con cá hồi ngon tuyệt vừa
mới đem về, và đó là con đầu tiên họ nhận được. Tôi đặt ngay
con cá đó cho vị khách của tôi. Người hầu bàn hỏi xem nàng có
muốn dùng gì trong khi món cá được chuẩn bị không.
— Không, - nàng đáp – Tôi không bao giờ ăn quá một món.
Trừ khi có trứng cá muối. Trứng cá thì tôi ăn được.
Tôi hơi chột dạ. Tôi biết tôi không đủ khả năng đặt món
trứng cá, nhưng tôi không tài nào nói với nàng điều đó được.
Tôi bảo người hầu bàn bằng mọi cách phải dọn món trứng cá.