New York Times số ra ngày hôm nay. Tôi căng thẳng và giận dữ vì đã ngủ
thiếp đi. Như một cái máy, tôi vừa lật giở tờ báo vừa đưa mắt trông chừng
ra cửa. Trời oi ả. Một chiếc quạt cũ kỹ thốc ra những luồng gió nóng đầy
mùi tỏi, rau mùi tây và hành phi. Điện thoại của tôi rung lên. Lần này là
một tin nhắn của Alan:
Đến gặp tôi ngay, AB.
Có chuyện gì vậy? Tôi hỏi luôn.
Tôi có thông tin mới về Joyce Carlyle.
Ông nói đi, Alan.
Không nói qua điện thoại được.
Tôi sẽ đến ngay khi có thể, tôi hứa.
Trong khi tôi đang lướt ngón tay trên màn hình điện thoại, một người
đàn ông đẩy cửa tiệm bánh vào. Trạc tuổi tôi, dáng người chắc nịch, tóc
đen, râu ba ngày chưa cạo. Vẻ mệt mỏi, anh ta đã nói lỏng cà vạt và xắn tay
áo lên. Vừa nhìn thấy tôi, anh ta bước dọc cửa hàng đầy quyết đoán rồi
ngồi xuống trước mặt tôi.
— Thám tử Baresi, anh ta tự giới thiệu. Tôi là cộng sự cũ của May.
Chính tôi đã cùng làm với chị ấy trong vụ tử vong của Joyce Carlyle.
— Tôi là Raphaёl Barthélémy.
Viên cảnh sát lấy khăn giấy lau mồ hôi trán.
— May đã đề nghị tôi gặp anh. Tôi báo trước là tôi không có nhiều
thời gian. Đang có hội nghị bầu ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng
hòa, nên chúng tôi làm việc như điên từ ba ngày nay.
Baresi chắc hẳn là khách quen của cửa hàng, bởi vì ông chủ lập tức
mang đồ ăn ra cho anh ta.
— Bánh knish vừa mới ra lò, anh chàng Ignazio ạ, ông chủ đảm bảo
và đặt trước mặt viên cảnh sát một khay đựng những chiếc bánh rán nhân
khoai tây, xà lách bộn và dưa chuột bao tử.
Một câu hỏi như thiêu đốt môi tôi:
— Anh đã tìm được hồ sơ vụ án rồi sao?
Baresi rót một cốc nước và lắc đầu.