nghẹn tiếng. Cô rọi đèn quanh cái hố mới. Cả sáu bề là đất, đất nâu sậm với
những mạch đất sét màu cam cháy chạy quanh, và đá lồi ra khỏi nền đất.
Trần hố đủ cao để đứng thẳng dậy, nếu như người ta thấp chừng đó, và
những bức tường lẫn trần hố đều được gia cố bằng những ván gỗ cũ kỹ.
Mấy miếng ván này cũng có thể gãy không nhỉ? Nếu gãy, mình sẽ bị
chôn sống à? Thế còn khí oxy thì sao? Mình bắt đầu thích thích oxy rồi đó.
Nat loại cái ý nghĩ tiêu cực ấy ra khỏi đầu. Cô đang đứng trong một
căn phòng gì đó do con người tạo ra.
Dường như là phức tạp hơn một căn hầm chứa thực phẩm. Cô rọi đèn
pin lên mấy miếng ván phía sau, rồi nhìn thấy vài chữ khắc gì đấy. Cô bước
đến và rọi ánh sáng lên mấy miếng ván. Vài chữ cái được khắc lên. C., J.,
và bên dưới là T.J. Cô chạy tay dọc những chữ ấy. Chúng được khắc bằng
một con dao cùn. Cô rọi ánh sáng lên chỗ khác trên miếng ván gỗ. Lại có
thêm nhiều chữ cái khác. L.M., C.M. Rồi đến một ngày, ngày 28 tháng Tư
năm 1860.
“Chúa ơi,” Nat nói lớn thành tiếng. Cô không thể tin vào mắt mình.
Năm 1860. Cô biết chắc nó là cái gì vì cô giảng dạy về nó mỗi năm. Một
trạm dừng chân trong hệ thống đường hỏa xa ngầm. Một loạt những hố,
những cửa bẫy giấu kín, những nơi trú thân bí mật dành cho nô lệ đào thoát
khỏi Maryland và những điểm xa hơn về phía Nam. Vài trạm dừng là
những ngôi nhà có nơi trú ẩn, nhưng nhiều chỗ khác là trong những gian
nhà phụ, để cho việc đào thoát được dễ dàng hơn nếu những tay săn nô lệ
tìm đến. Trong hạt Chester có rải rác vài căn nhà lịch sử đã che giấu nô lệ,
vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nat thuộc nằm lòng những căn nhà ấy, một sử
gia thì luôn phấn khích khi ghi nhớ những cái tên xưa cũ: nhà của Moses và
Mary Pennock. Nhà của Eusebius và Sarah Barnard. Nhà của Mordecai và
Esther Hayes. Nhà của Isaac và Thomazine Meredith.
Nat đứng đấy, ngạc nhiên chiêm ngưỡng. Cái hố này hẳn là một trong
những cái chưa được tìm ra. Một cái hố cho mãi đến hôm nay vẫn chưa