người Huế thúc giục, gắt gỏng hoài, người xà ích cuống cuồng nắm tay
đấm luôn mấy cái vào cánh cửa. Vẫn yên lặng như tờ.
Hai con ngựa chồn chân, nện móng xuống bùn, thở ra hơi khói. Gió
ngoài sông hút vào lạnh thấu tới thịt xương. Mưa càng mau hột. Cả Hà
thành đang say giấc.
Nhưng trong cái ngõ bẩn thỉu của dân lao động ấy, người nói giọng Huế
nọ đang làm một “sứ mệnh”, một việc cho quốc gia, mà nếu chẳng thành, ắt
là phạm tội bất trung, không tận tâm thờ chúa. Ngài sẽ quở, và chẳng may
cơn điên nổi lên như giông tố thì khi vô Kinh, đầu vị “sứ thần” có thể rơi
rụng như một trái cây chín nẫu.
“Sứ thần” nóng ruột, rít răng lại mà la:
- Mi chỉ nói tầm bậy tầm bạ... nó có ở đây đâu.
- Dạ bẩm cụ lớn, quả thiệt nó ở đây ạ. Mà không biết sao chẳng có đứa
nào lên tiếng. Bẩm cụ lớn, con đã có cách này...
Tức thì, tên xà ích nhảy lên xe, ném hòn đá vào trong sân, vẫn không
thấy động tĩnh gì; anh ta liền víu mặt tường nhún mình trèo lên, rồi tiện cây
táo mọc sát tường, anh ta tụt xuống đất một cách thật dễ dàng, nhanh nhẹn
như tên đại bợm.
Gần khuya, mà tên xà ích lại mất tăm nốt, “sứ thần” ngồi không yên,
ngài mở cửa xe bước xuống. Ngài dặng hắng, ngài ho, ngài lại dặng hắng,
nhưng cái tên bồi xe khốn nạn và cả nó nữa, vẫn chưa ra, khiến ngài phải
chờ hoài. Rét, ngài run lập cập, có lẽ rét tự đáy ruột rét ra, vì ngài giận lắm.
Đứng một chỗ cũng không yên, ngài tay chắp sau lưng, đi đi, lại lại. Đôi
giầy da láng, giẫm bừa lên các vũng nước mưa, bùn bắn cả lên chiếc quần
lụa và chiếc áo huyền hoa chữ thọ. Ngài không đeo huy chương, song vẻ
mặt uy nghi, dáng đi đường bệ, thì dù đêm ấy, ngài đang mò mẫm trong cái
xó xỉnh bùn lầy, nếu có kẻ nào bạo gan nhìn trộm, tất cũng nhận ngay ra
đấy là một vị quan lớn ở Kinh đi phò giá đức vua ngự du Bắc Hà. Và kẻ ấy
tất phải kinh ngạc mà tự hỏi tại sao quan lớn kia lại đỗ xe song mã trước
một căn nhà tăm tối, đứng mong chờ, ngấp nghé như một chàng công tử si
tình, đón đợi tình nhân?