Người thiếu nữ Pháp được quân vương vời đến, hiện còn sống ở Hà
thành, sống những ngày kham khổ tẻ buồn.
Người đàn bà ấy, tóc đã hầu trắng như tuyết; mặt đã dăn deo, nhưng nét
nhan sắc thời xưa vẫn còn ghi lại; lưng đã còng gập xuống mang nặng mớ
tuổi già.
Giờ đây bà ở với một người đàn bà Pháp nữa, tuổi nhiều hơn, và trong
thâm tâm người bạn giang hồ già nua đó cũng giấu một cuốn sử về thời đại,
về nghề làm đĩ như bà.
Từ mười mấy năm trước, hai người chung lưng mở một cửa hàng bán
rượu, cà phê, mà khách thì, cách sáu bảy ngày chủ hàng ngồi khòm lưng
đợi mới có vài người lính Pháp xô nhau vào gọi mấy thứ uống rẻ tiền, đánh
nhau, phá phách ầm ầm. Nhiều khi sáu bảy tối liền hai người vừa cố mở đôi
mắt đã hơn nửa đời mờ vì sắc dục, xỏ kim vá áo, hoặc xem tờ báo cũ gói
hàng, vừa ngóng ra ngoài phố vắng chờ mấy người khách uống chịu đến trả
tiền để ngày mai mua bánh ăn cầm hơi.
Cứ thế, đôi bạn già theo đuổi mãi nghề cũ, giơ mãi cặp má deo, đôi môi
héo nhợt, và cái ngực lép, lưng còng cho bọn lính Pháp say rượu thỉnh
thoảng kéo nhau đến bỏ vài hào uống nước để giày vò. Đời đã mòn mỏi rồi,
xác thịt đã dơ như con vật chết, vậy mà hai người đàn bà khốn nạn vẫn còn
phải sống, sống với ngôi hàng trơ trọi, cái tủ gỗ nát với chiếc bàn, vài ba
cái ghế mây sơn. Đèn, chỉ một cây đèn dầu ánh sáng đỏ loe, bốc khói;
tường, một màu vôi vàng nồng hơi ướt ẩm, mồ hóng ám đen. Đó là một
quán rượu ta thấy tả trong truyện Ba người ngự lâm pháo thủ, và ta phải
tưởng tượng rằng, nếu chẳng ở thời hiện tại, tất quán rượu kia phải là nơi tụ
họp của các kị sĩ, các tay phong lưu mã thượng giang hồ, và ở đấy, phải
luôn luôn có những cuộc ngáng gươm, đổ máu.
Nhưng đây chỉ là quán rượu của hai ả điếm hết thời, bán xuân già kiếm
miếng nuôi thân; đây chỉ là một ngôi nhà cổ nhất Hà thành dựng trong một
phố “đặc biệt An Nam” suốt ngày có tàu điện chạy ầm ầm, suốt ngày - cả
đêm khuya nữa - vang tiếng búa của thợ rèn gần đó.
Bây giờ, quán rượu ấy đóng cửa rồi.