tầu. Sông Bạch Đằng thường có gió to sóng lớn. Hai cái thuyền trắng nõn
nổi lềnh bềnh trên mặt nước đục ngầu, luôn luôn nhô lên, chúi xuống va
chạm vào nhau. Hồi ấy đã được học lịch sử, chúng tôi có cảm tưởng rằng
đấy là một trận huyết chiến của Trần Hưng Đạo với Ô Mã Nhi của nhà
Nguyên, - “Xưa kia, tại con sông này, biết đâu chẳng chính ngay chỗ chúng
ta đang đứng, đã vùi bao nhiêu xương máu”, - nghĩ thế, chúng tôi la hét ầm
lên, trợ oai cho mấy anh lính giấy đang va đập vào nhau.
Một buổi sớm, độ hồi canh tư, tôi đang chập chờn đợi thằng con ông
Bồng đến gõ vào vách đánh thức tôi dậy học bài thì tôi nghe thấy tiếng kêu
văng vẳng ở bến tầu, thày mẹ tôi cũng vùng cả dậy, ai nấy ngơ ngác lắng tai
nghe.
Tôi loáng thấy bóng ông Bồng chạy vút qua cửa sổ. Mẹ tôi gọi giật ông
lại hỏi, giọng bà run lên:
- Cái gì đó hở ông?
Ông Bồng đáp vội vàng, giọng ông run run:
- Ngoài bến có tàu bị đắm, không biết thằng Bống nhà tôi có làm sao
không.
Nói rồi, ông chạy biến ra ngoài bờ rào dâm bụt. Tôi ngồi trùm chăn run
bần bật, thấy hiện ra biết bao xác chết. Mẹ tôi cũng run bắn cả người, và bà
lẩm bẩm khấn Trời, cầu cho không ai chết, nhất là thằng Bống, bà cầu cho
nó đừng đáp thuyền ra bán hàng ở chiếc tàu bị nạn kia. Tôi cũng lo cho nó
lắm. Cái chết của nó, nếu xảy ra, sẽ khiến tôi đau buồn hơn cái chết của lão
già câm kia nhiều. Cả nhà tôi im lặng, lắng nghe tiếng kêu ngoài sông lúc
này càng vang rộn thêm lên. Bỗng có tiếng chân người chạy huỳnh huỵch
ngoài ngõ, rồi thằng Bống đẩy cửa chui vào. Tôi mừng quá nhảy xuống
giường ôm lấy nó. Nó hổn hển thuật cho thầy mẹ tôi nghe cái tai nạn vừa
xẩy ra: đó là chiếc tầu “Thông Vôi” ở Hải Phòng về.
Tầu đang lượn dần vào cặp bến thì hành khách tranh nhau lên trước đổ
xô về một mạn, nhân lúc sóng gió to, tầu chòng chành, nước ùa vào, rồi
nghiêng chìm xuống. May nó đi lấy bánh, chậm ra một chút thành ra thoát