Tôi quen lệ như mọi khi đọc thư người anh cả, con cô tôi ở ngoài mỏ
Uông Bí gửi măng đa về, nên từ từ bóc phong bì. Nhưng đấy là bức thư chữ
đàn bà dưới kí tên chị tôi tức là cô con gái quý của cô tôi. Tôi đọc. Hỡi ơi
đó là bức thư tuyệt mệnh, viết bằng máu và hoen nhòe nước mắt. Thì ra cô
con gái quý của cô tôi đã trẫm mình ở Hồ Tây chỉ vì chị ấy đã thất trinh, đã
có mang và gã sở vốn là một ông đốc học một trường tư thục đã ra roi giục
truy phong phi nước đại.
Thời ấy gái thâm nghiêm chỉ còn cách gỡ danh dự bằng thuốc độc, nước
hồ, mỗi khi bị phụ tình, bị cưỡng hôn hay chán đời bởi chẳng được cùng ai
tròn duyên kiếp.
Cô tôi nghe xong thư chết ngất đi, rồi ốm, rồi chết thật. Rồi sau đó, tôi
được giải phóng khỏi cái ngục tù tiền Khải Định vàng chóe, tiền xu đồng
đỏ ối xếp cao như núi bấy lâu đè trĩu mái đầu xanh tội nghiệp của tôi.
Tôi ôm bọc áo, mớ sách, đi ở nhờ nơi khác. Nhưng ngày ngày dù ở đâu,
dù đi đâu, quanh cái thành phố băm sáu phố phường chật hẹp này, tôi vẫn
gặp người đưa thư ấy. Ông ta vẫn âm thầm lặng lẽ làm cái công việc của
con chim câu sứ giả. Ông ta vẫn nhẫn nhục cần cù, câm nín, cùng chiếc xe
nhà đen cũ kĩ cao ngất ngưởng, hàng ngày đi khắp hang cùng ngõ hẻm,
phân phát những chuyện buồn vui, sầu não của muôn vạn mối tình duyên
thiên hạ, những chuyện lọc lừa xảo trá, tóc tang bỉ ổi của muôn vàn con thú
dữ đã nhờ mảnh giấy con tem, chiếc dấu bưu điện để, dẫu cách xa nhau
nghìn dặm, cũng có thể cắt hầu cắt họng nhau vì một mưu thần chước quỷ,
vì một mánh khóe sâu độc gian hùng.
Tôi đã nhớn lên dần, tôi đã bị guồng máy thời gian nhào lộn theo luật
phù trầm gớm ghiếc và tôi đã già đi trước tuổi. Vậy mà ông ta, người đưa
thư ấy, người sứ giả vô cùng nhẫn nại ấy, vẫn tháng ngày ngồi dựng đứng
trên chiếc xe nhà sơn đen cũ kĩ mòn bánh và long trục, lọc cọc lăn hoài trên
các ngả đường.
Ông ta vẫn đội chiếc mũ thuộc địa bọc vải vàng, vẫn mặc bộ tây vải ka
ki, áo cổ cứng ôm lên gáy, một dãy khuy đồng có mỏ neo và đôi chân chữ
bát vẫn lê đôi giầy săng đá. Mỗi khi đeo cái hòm da kếch sù trước ngực,