chiều anh ấy quan hệ với một ả nào đó cả tháng trước chứ? Thế là kế hoạch
được vạch ra.
Tại ngưỡng cửa, hai người bọn anh đã đứng ưỡn ngực đúng như hai
người đàn ông. Anh ấy vỗ vai anh còn anh đấm vai anh ấy. Tôi ôm ghì lấy
anh ấy và hứa sẽ cầu nguyện cho anh ấy được an toàn. Brandeis nói rằng đó
quả là một ý hay, và chúc mừng tôi thêm lần nữa về việc tôi có thai. Khi
anh ấy nắm tay tôi, tôi có thể cảm nhận được vết sẹo dài trên tay anh ấy, và
chỉ khi đó tôi mới nhớ ra anh ấy đã bị bỏng khi cố rút mũi tên ra khỏi ngực
anh. Khi anh ấy đi về phía màn đêm, tôi thực sự nhận ra rằng chúng ta đã
nợ anh ấy nhiều đến thế nào.
Tháng tiếp theo cứ thế trôi đi. Chúng ta có nói về Brandeis nhưng chẳng
bao giờ nhiều hơn vài từ một lần, gần giống như hồi chúng ta tránh nói về
khát khao có con, như thể chúng ta sợ dại mồm dại miệng vậy. Năm tuần.
“Anh có nghĩ…?” tôi hỏi. “Rồi sẽ có lúc anh ấy về,” anh trả lời.
Sáu tuần, Brandeis không xuất hiện. Tôi không khỏi lo lắng, và tôi nôn
suốt các buổi sáng vì ốm nghén. “Rồi sẽ có lúc anh ấy về,” anh liên tục nói
thế. Tôi đã vượt qua được nỗi lo lắng cho sự an nguy của anh ấy - và của cả
chúng ta nữa, khi cuối cùng anh ấy trở về thật. Anh liên tục trấn an tôi rằng
mọi thứ sẽ ổn thôi, và tôi đã cố hết sức để tin như vậy.
Bảy tuần. Tôi đang ở nhà soạn một bản thảo, ngồi bên cạnh cửa sổ, thì
một bóng người trùm khăn kín mít đi qua những dãy phố về phía ngôi nhà.
Tôi nhận ra cái chân cứng đơ và ngay lập tức biết đó là Brandeis dù anh ấy
đã che kín mặt. Chiếc áo chùng của anh ấy phủ đầy những lớp tuyết rơi từ
sáng sớm, và đó là một ngày hoàn toàn thích hợp để ăn mặc ấm áp mà
không bị nghi ngờ. Không ai có thể băn khoăn nghi ngại gì trước việc một
người đàn ông chỉ đang cố giữ ấm thân thể. Tôi để anh ấy vào khi đã chắc
chắn không có ai lai vãng trên đường.