đồ đạc anh dùng để chặn cửa rung lên bần bật, và ngay lập tức mọi thứ trở
nên rõ ràng, chúng ta đã bị phát hiện. Đường thoát duy nhất là qua cửa sổ,
dù chúng ta đang ở trên tầng hai, cách mặt đất khoảng năm mét.
Tôi cố gắng nâng mình ra khỏi giường nhưng không thể, và anh phải
dùng cả hai tay để xốc tôi dậy. Khi tôi đã thở lại bình thường, Brandeis thu
dọn chỗ túi xách; anh nghển cổ ngó ra ngoài khung cửa sổ để xem có kẻ
nào bên dưới không, và hất tay cảnh báo mọi người lùi lại. “Cung,” anh ra
lệnh.
Brandeis chộp lấy cây cung và lắp tên sẵn vào cho anh. Ngay khi sợi dây
đã được kéo căng, anh ấy đặt nó vào tay anh và anh bắn thẳng mũi tên qua
cánh cửa sổ. Tiếng tên xé gió bay vụt đi và rít lên khi nó đâm vào một vật
cứng. Anh lại đưa tay ra hiệu rằng đường đã thông và nhảy khỏi cửa sổ
trước. Không phải do anh thiếu lịch thiệp, mà vì phải có người đỡ tôi
xuống. Phía sau chúng ta, tiếng cánh cửa vỡ ra dưới những nhát rìu.
Dù nguy hiểm đã cận kề ngay trước mặt, tôi vẫn đông cứng lại trước cái
cửa sổ. Cú rơi là quá sức của tôi, quá nguy hiểm cho đứa bé. Brandeis đứng
giữa tôi và cánh cửa ra vào, thét gọi tôi nhảy xuống. Nhưng tôi cứ đứng yên
bất động, nhìn xuống cánh tay dang rộng ở phía dưới của anh, cho tới khi
tôi nghe thấy giọng Brandeis vang lên từ phía sau - “Marianne, tôi xin lỗi” -
khi anh ấy đẩy tôi qua khung cửa sổ mở toang.
Tôi ôm bụng rơi xuống và anh hứng toàn bộ sức nặng từ cú rơi của tôi
bằng cách lăn xuống tuyết khi anh bắt được tôi. Tôi nghe thấy tiếng quát
tháo phía trên; vài giây sau, Brandeis bắn ra khỏi cửa sổ.
Cách anh ấy rơi có gì đó rất lạ, nhưng hầu hết tất cả sự chú ý của tôi đều
tập trung vào tên lính nằm chết ngắc trên đường. Mặt hắn bị vùi trong một
vũng tuyết bẩn, cổ thì ngoẹo thành một góc quái dị vì bị mũi tên cắm xuyên