trò với ông ta lắm - nói với ông ta rằng tôi đã bú sữa mẹ trong thời gian quá
dài và hiện đang rất nhớ mẹ, hoặc tôi đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc -
nhưng cổ họng tôi không thể chịu được sức ép nếu nói quá nhiều từ cùng
lúc. Tuy thế, tôi vẫn khiến ông ta hiểu được rằng tôi chẳng mấy hứng thú
với bất kỳ phương pháp trị liệu nào ông ta đưa ra.
Gregor ngồi xuống và cầm cái kẹp hồ sơ trong tư thế không khác gì cậu
học sinh đang cố che giấu sự cương cứng của mình. Ông ta bảo đảm chỉ
muốn giúp tôi thôi, rồi huơ tay loạn xạ ra dấu ông ta không có ý định đến
đây để “thâm nhập” vào đầu tôi. Khi còn bé, bọn du côn hàng xóm hẳn đã
đánh ông ta như cơm bữa.
Tôi cố bật ra được vài từ: “Thêm thuốc giảm đau đi.” Ông ta nói không
được, và thế là tôi đuổi ông ta đi. Ông ta bảo tôi không cần phải miễn
cưỡng nói chuyện, nhưng ông ta muốn chia sẻ vài phương thức tưởng tượng
sáng tạo để chống lại cơn đau. Tôi thấm nhuần lời khuyên của ông ta và
tưởng tượng sáng tạo rằng ông ta đã rời khỏi phòng.
“Hãy nhắm mắt lại và nghĩ đến nơi anh muốn tới,” ông ta nói. “Nơi đó có
thể là một kỷ niệm, hay một địa điểm anh muốn đến thăm trong tương lai.
Bất cứ nơi nào làm anh cảm thấy hạnh phúc.”
Lạy Chúa lòng lành.
* * *
Bác sĩ Edwards đã cảnh báo tôi là lần đầu tỉnh táo trải qua ca mổ cắt bỏ
mô hoại tử sẽ rất đau đớn, thuốc giảm đau cũng không ích gì, cho dù có
tăng liều. Nhưng tất cả những gì tôi nghe được là “tăng liều”, và nó làm tôi