biết được rằng Chúa luôn chuẩn bị sẵn những phương án lớn lao cho mỗi
chúng ta. Lý do của Người rất chính đáng, chỉ có điều có lẽ chúng ta chưa
hiểu được thôi.” Riêng tôi thì cho rằng chẳng hay ho gì khi nói với một cô
bé mới bảy tuổi đầu rằng Kế hoạch Vĩ đại của Chúa là đốt cháy phổi của
em ấy.
Howard cũng là một bệnh nhân trong khoa bỏng. Anh bị bỏng từ trước
khi tôi đến rất lâu, trong một vụ cháy nhà do người bà bị bệnh Alzheimer
của anh ngủ quên với điếu thuốc lá cháy dở kẹp giữa hai ngón tay. Người bà
không qua khỏi nhưng anh thì có, và bây giờ anh đang rất chăm chỉ thực
hành các bài tập hồi phục chức năng. Anh tập đi bằng nạng, tập tay với
những quả tạ nhỏ bằng bạc, anh đi mười bước một ngày rồi mười hai bước
ngày tiếp theo. Mắt anh sáng bừng với mỗi thành tựu đạt được, anh không
ngớt nói với tôi rằng mình sẽ “vượt qua thử thách này” và sẽ “sống lại cuộc
đời mình.” Những tuyên bố hùng hồn này chỉ càng mãnh liệt hơn sau khi cô
vợ chưa cưới tuyên bố với anh rằng sẽ không có cưới xin gì nữa hết.
Khi Howard ra viện, cả gia đình anh cùng một tá bạn bè (gồm cả cô nàng
từng-là-vợ-chưa-cưới) đã tới khoa bỏng chúc mừng. Họ mang một chiếc
bánh ga tô đến và nói trông anh tuyệt đến thế nào và họ tự hào về anh ra
sao. Howard đã nói rằng “đây là ngày đầu tiên trong cuộc đời còn lại của
tôi.” Đó đúng là một bữa tiệc khoa trương khủng khiếp, thậm chí cả cái
cách họ đột ngột thu dọn đồ đạc cho anh cũng vậy. Howard lê bước về phía
giường tôi, nắm lấy bàn tay còn lành lặn của tôi. “Tôi đã nói với cậu là tôi
có thể đánh bại được nó. Tôi đã nói với cậu vậy mà. Cậu cũng có thể làm
được như thế!” Anh nháy mắt trong nỗ lực truyền động lực cho tôi nhưng,
do sự co cơ quanh vùng mắt, cái nháy mắt ấy chỉ làm tôi nghĩ đến hình ảnh
một con ruồi đang cố gắng thoát ra khỏi miệng bồn cầu.
Khi ra khỏi phòng, với cha mẹ tháp tùng hai bên, anh không ngoái nhìn
lần cuối phòng điều trị bỏng, căn phòng đã gắn bó với anh suốt nhiều tháng
qua; tôi có thể thấy rõ anh không hề muốn nhìn lại.