thành phố Netanya. Ban quản lý chung cư đã được báo cho biết cô ta đang
an dưỡng sau một thời gian dài bệnh hoạn. Điều đó không khác xa sự thật.
Cả tuần cô không hề bước chân ra ngoài bốn bức tường của căn hộ.
Những ngày ấy của cô thiếu hẳn những việc thường lệ có thể nhận biết
được. Cô ngủ dậy trưa, cô ngắm biển, cô đọc lại quyển tiểu thuyết mình
yêu thích nhất, tất cả đều dưới ánh mắt chăm chú cảnh giác của một đội bảo
an thuộc Văn phòng. Một bác sĩ mỗi ngày một lần tới kiểm tra sức khỏe
cho cô. Vào ngày thứ bảy, khi được hỏi có bị đau đớn gì không, cô trả lời
mình đang chịu đựng một cảm giác buồn chán đến tột cùng.
“Thà chết vì buồn chán còn hơn vì thuốc độc của Nga,” bác sĩ đành
chịu thua.
“Điều ấy tôi cũng chẳng chắc chắn lắm,” cô đáp lại bằng tiếng Anh
kéo dài ra.
Bác sĩ hứa sẽ thỉnh cầu lên người có thẩm quyền cao hơn về điều kiện
bị giam hãm của cô; và đến ngày lưu trú thứ tám người có thẩm quyền cao
hơn cho phép cô được đi bộ một thời gian ngắn trên dải cát lộng gió lạnh
giá nằm bên dưới khoảnh sân trước căn hộ của cô. Hôm sau đó cô được đi
xa hơn một chút. Và vào ngày thứ mười cô cứ đi mãi tới gần Tel Aviv, rồi
những người theo nhắc nhở cô mới nhẹ nhàng đặt cô lên đằng sau một
chiếc xe hơi của Văn phòng và chở cô trở về căn hộ. Khi bước vào cô thấy
một bản sao chép chính xác của bức tranh The Pond at Montgeron treo trên
tường phòng khách - thật chính xác ngoại trừ chữ ký của họa sĩ đã vẽ ra nó.
Người họa sĩ ấy gọi điện cho cô vài phút sau đó và tự giới thiệu thật đúng
đắn lần đầu tiên.
“Là Gabriel Allon ấy sao?” cô hỏi.
“Tôi e rằng đúng như vậy,” ông trả lời.
“Còn người phụ nữ giúp tôi lên máy bay là ai thế?”
“Rồi cô sẽ sớm biết thôi.”