không hề thay đổi. Cũng là đôi mắt từng theo dõi Gabriel hết sức chăm chú
khi ông thuật lại thật tỉ mỉ cái chết của Abu JThad. Và cũng chính đôi mắt
ấy đã từng ban cho ông sự khoan dung vào một đêm mưa ở Venice, trong
một quãng đời khác.
“Tôi định mời ông ăn trưa,” Keller nói theo giọng điệu nuốt âm của
tiếng Anh, “nhưng nghe nói ông đã dùng bữa tại nhà Orsati rồi.”
Khi Keller đưa tay về phía Gabriel, các bắp thịt săn chắc trên cánh tay
của y cuồn cuộn dưới lớp áo len tròng đầu màu trắng. Gabriel chần chừ một
lát và cuối cùng cũng nắm chặt bàn tay ấy. Mọi thứ về Christopher Keller,
từ hai bàn tay giống như hai lưỡi rìu nhỏ đến đôi chân mạnh khỏe như có
gắn lò xo, dường như đều được cố ý thiết kế vì mục đích giết người.
“Ông trùm đã nói với anh bao nhiêu rồi?” Gabriel hỏi.
“Đủ để biết ông không thể tiếp cận một gã như Marcel Lacroix nếu
không được hỗ trợ.”
“Tôi đoán anh quen biết hắn ta?”
“Hắn có chở tôi một lần.”
“Trước đây hay sau này?”
“Cả hai,” Keller đáp. “Lacroix đã phạm một tội ác trong quân đội
Pháp. Hắn cũng từng trải qua một số nhà tù khắc nghiệt nhất ở nước này.”
“Chắc tôi sẽ có ấn tượng với hắn, phải không?”
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng đấy.”
“Là lời Tôn Tử,” Gabriel nói.
“Thì ông đã trích dẫn đoạn ấy khi diễn giảng ở Tel Aviv mà.”
“Vậy là rốt cuộc, anh đã lắng nghe đầy đủ.”
Gabriel đi lướt nhanh ngang qua Keller, bước vào gian phòng rộng
mênh mông của biệt thự. Đồ đạc bày biện kiểu thôn quê, cũng phủ vải trắng
như chủ nhà. Hàng đống sách chất đầy khắp các mặt bằng phẳng, và trên
tường treo rất nhiều bức tranh có giá trị, và cũng gồm cả các tác phẩm kém
nổi tiếng hơn của Cezanne, Matisse và Monet.