không còn nữa, chỉ còn nỗi giận dữ không nhằm vào anh. Anh ra hiệu cho
họ bước tới những ngăn giá để đồ vẫn còn chứa lương thực. Giờ thì anh có
thể đi đến chỗ Charlotte và nắm cánh tay cô.
“Đi thôi”, anh nói. “Hãy ra khỏi đây nào.” Sau đó (anh đã quay trở lại
chỗ xe lửa đang đỗ, nơi Hogben, cũng là toàn bộ kíp lái, đang ngồi bên lò
sưởi ấm trong cái khoang không rộng hơn một cái tủ đựng chổi là bao.
“Vậy là ba mươi ngày nữa, anh sẽ quay trở lại đây?”, Wilbourne hỏi.
“Cứ ba mươi ngày tôi phải thực hiện một chuyến đi để duy trì quyền
hoạt động của mỏ”, Hogben đáp. “Anh nên đưa vợ anh đi khỏi đây bây
giờ.”
“Chúng tôi sẽ đợi”, Wilbourne nói. Anh quay lại căn nhà họ ở và cùng
Charlotte đứng trước cửa nhìn hàng dài đám đông xuất hiện từ phía nhà
kho trông thật thiểu não, tiến về phía bên kia hẻm núi leo lên xe lửa, nhét
nhau vào đầy ba toa. Nhiệt độ lúc này không phải là bốn mươi mốt độ,
cũng không vọt lên đến mười bốn độ. Xe lửa chuyển bánh; họ có thể nhìn
thấy những khuôn mặt nhỏ xíu nhìn về phía lối vào mỏ quặng và những
đống rác với vẻ ngơ ngác, buồn bã, choáng váng, cho thấy họ không thể tin
nổi chuyện vừa mới xảy ra; khi con tàu chuyển bánh, âm thanh của những
giọng nói nổi lên, bay đến chỗ họ qua hẻm núi nghe thật tuyệt vọng, thê
lương, hoang dại và yếu ớt vì khoảng cách khá xa), anh nói với Charlotte:
“Ơn Chúa trước tiên chúng ta đã có cái ăn”.
“Có thể chỗ thực phẩm đó chưa hẳn thuộc về chúng ta”, cô nói bằng
giọng tỉnh táo.
“Vậy thì chỗ thực phẩm đó là của Buckner. Họ cũng chưa trả tiền công
cho anh ta kia mà.”
“Nhưng anh ta đã chuồn khỏi đây rồi. Họ không trả công cho anh ta
đâu.”
Mùa xuân đã đến gần hơn; trước khi cái xe lửa ấy đến mỏ theo đúng
lịch có thể, họ đã nhận thấy sự chớm hé của mùa xuân trên núi - mùa xuân
mà cả anh và cô đều chưa từng thấy và chẳng hề biết nó sẽ không thực sự
đến cho tới thời điểm mà theo trải nghiệm của họ là đầu mùa hè. Đêm hôm
ấy, họ nói về điều đó, khi cái nhiệt kế có lúc lại báo bốn mươi mốt độ âm.