luôn biến chuyển và dễ đổi thay thuộc thời đại của hắn. Vậy là nhiều lần,
khi dẫm chân trên những tảng đất đen màu mỡ đã được lưỡi cày của mình
lật lên hoặc khi dùng cuốc tỉa bớt những mầm cây bông và mầm ngô hay
khi ngả tấm lưng mỏi rũ trên giường sau bữa tối, hắn lại thổ ra một tràng
những lời nguyền rủa, gay gắt và nhàm chán; không phải nguyền rủa những
người đang sống đã đẩy hắn vào tình cảnh này mà nguyền rủa những gì hắn
thậm chí không biết chỉ là bút danh, chỉ là những kẻ không có thực trên đời,
chỉ là tước hiệu của những cái bóng viết về những cái bóng mà thôi.
Tù nhân thứ hai có dáng người thấp đậm. Gã hầu như không có tóc, và
là người da trắng. Gã giống một sinh vật lộ ra dưới ánh sáng mặt trời khi
người ta lật những tấm gỗ mục lên và gã cũng mang trong mình (mặc dù
không phải qua đôi mắt như tù nhân thứ nhất) nỗi oán hận đầy bất lực và
dữ dội. Nỗi oán hận đó không bộc lộ ra ngoài vì vậy, chẳng ai biết nó đang
tồn tại. Nhưng không ai biết nhiều về gã, ngay cả những người đã tống gã
tới đây. Nỗi oán hận của gã không nhằm vào những gì được in trong sách
mà nhằm vào một thực tế đầy nghịch lý rằng gã phải đến đây vì sự lựa chọn
và nguyện vọng của chính gã. Gã buộc phải lựa chọn giữa trang trại của
bang Mississippi và nhà tù Liên bang ở Atlanta, và việc gã, kẻ giống một
con ốc sên xanh xao, trọc lốc, đã chọn thụ án ở một nơi cho phép hắn được
ở ngoài trời, tiếp xúc với ánh mặt trời chỉ là một cách biểu thị khác cho tính
khí bí ẩn cô độc được bảo vệ nghiêm ngặt, tựa như thứ gì đó có thể bỗng
nhiên khuấy động mặt nước ao tù trong chốc lát rồi lại chìm xuống trong
yên ắng. Không người bạn tù nào của gã biết gã phạm tội gì, ngoài thông
tin gã bị phạt tù một trăm chín mươi chín năm - thời gian chịu án đầy phi lý
và bất khả thi này tự nó đã mang tính hoang đường và xấu xa, cho thấy lý
do gã ở đây là bởi vì mọi đối tượng đấu tranh cho công lý, trụ cột của công
lý và sự công bằng - những kẻ đã buộc gã phải tới đây vào thời điểm đó -
đã trở thành các tông đồ mù quáng không phải của công lý thuần túy mà là
của cách đối xử phù hợp với tính cách của con người, những công cụ mù
quáng không phải của lẽ công bằng mà của nỗi oán hận và sự trả thù của
con người, đã phát huy tác dụng trong sự phối hợp mang tính cá nhân đầy
thù địch của thẩm phán và bồi thẩm đoàn - một nhóm người rõ ràng đã thủ