chân dồn tới; một giọng nói vang lên, “Đó! Tiến lên đi! Giết hắn đi!”, và
Wilbourne nhìn thấy nó - cái áo khoác màu xám (chính cái áo khoác đó) di
chuyển về phía quan tòa với khuôn mặt đầy tức giận: Người đàn ông ấy
bước vào phòng xử án mà không hề báo trước, phải chịu đựng một dạng
khổ sở chẳng hợp với anh ta chút nào và giờ đây chắc hẳn đang tự nhủ, Tại
sao lại là mình chứ? Tại sao? Mình đã làm gì chứ? Trong cuộc đời mình đã
gây ra chuyện gì chứ?; anh ta tiến đến rồi sau đó dừng lại và bắt đầu lên
tiếng, âm thanh ồn ào tạm ngừng khi anh ta cất lời: “Thưa quý tòa... xin
quý tòa làm ơn...”.
“Anh là ai?”, quan tòa hỏi.
“Tôi là Francis Rittenmeyer ”, Rittenmeyer đáp. Và tiếng ồn ào lại nổi
lên, cái búa lại được gõ xuống mặt bàn, lần này chính quan tòa phải quát to
để dẹp trật tự.
“Trật tự! Trật tự! Nếu còn gây mất trật tự như thế này nữa, tôi sẽ cho
giải tán hết! Hãy tước vũ khí của người đàn ông đó!”
“Tôi không có vũ khí”, Rittenmeyer nói. “Tôi chỉ muốn...” Nhưng
người chấp hành viên và hai người đàn ông khác đã sấn tới, hai ống tay áo
màu xám của anh ta bị giữ chặt trong khi họ sờ nắn tất cả các túi áo túi
quần lẫn hai bên sườn anh ta.
“Anh ta không có vũ khí, thưa quan tòa”, người chấp hành viên của
tòa án nói. Quan tòa quay sang viên trưởng lý của quận, lúc này đang run
lẩy bẩy, ông ta quá già để chứng kiến những việc như thế này.
“Trò hề này là thế nào hả, ông Gower?”
“Tôi không biết, thưa quý tòa. Tôi không...” “Không phải ông đã triệu
tập anh ta tới đây chứ?”
“Tôi không cho rằng điều đó cần thiết. Xét trên việc...” “ Nếu quý tòa
làm ơn”, Rittermeyer nài. “Tôi chỉ muốn có một...” Quan tòa giơ tay lên và
Rittermeyer ngừng nói.
Anh ta đứng yên, vẻ mặt không biểu lộ cảm xúc hệt như một bức
tượng điêu khắc thường thấy trong các nhà thờ Gothic, đôi mắt nhạt màu
của anh ta cũng mang vẻ trống rỗng của mắt một bức tượng cẩm thạch
không có con ngươi. Vị quan tòa nhìn chằm chằm viên chưởng lý - người