một cuộc hôn phối không hình dung nổi giữa cái cao đẹp và cái cặn bã.
Thật tương phản biết bao giữa sự thô lậu của cuộc sống đang diễn ra, cái
khuynh hướng bét nhè của ông, những cuộc tình nhớp nhúa, những lời lẽ
tục tĩu với cái duyên dáng, cái trong trẻo rõ ràng và trong suốt như kim
cương của thơ ông trong thiên niên kỷ tới.
Ông không có một địa vị chính thức nào, không giàu có, không bạn bè thế
lực. Là thứ trang điểm và sự tò mò của cả một thế hệ nhà thơ, ông là vị
chúa tể tinh tế duy nhất của lối phản ngữ, tiêm vào nét mơ hồ của tiết tấu,
soạn ra những câu thơ 11 chân, thực hành phép thơ liên cú, viết từ thượng
vàng đến hạ cám, kể cả những bài “xon-nê” cho những kẻ cho vay nặng lãi
vờ vĩnh là các ông chủ bút. Người ta xếp nó vào loại thơ đồi trụy. Thế lại
hóa tốt. Tất cả đấy là thứ nghệ thuật tìm đến cái chết một cách đẹp đẽ…
Sau hai chục lần vào bệnh viện ở Paris, ông hấp hối trong căn phòng trọ số
39 phố Descartes. Khu phố Montagne-Sainte-Geneviève lặng lẽ trong lớp
sương mù lãng đãng, nhớp nháp, làm mồi cho sự mục nát. Người thầy
thuốc lâu năm của ông thừa nhận rằng lục phủ ngũ tạng của ông đã nát bấy.
Người ta đếm được 10 thứ bệnh trong người ông: Thấp khớp, xơ gan, viêm
dạ dày, hoàng đản, giang mai, đái đường, to tim… Cơ thể ông giống như
một từ điển bách khoa bệnh học.
Những ngày cuối đời ông sống với chiếc bút vẽ, tô điểm mọi vật dụng
thường nhật. Một tiếng than thở yếu ớt vọng lên trong sự vắng lặng của
màn đêm, vang lên từ các tập thơ Amour (Tình yêu), Sagesse (Sự khôn
ngoan), Jadis et Naguère (Xưa kia và mới đây) hay Fêtes galantes (Những
lễ hội phong tình). Ngày 8/1/1896, vào lúc 7 giờ tối, ông từ giã cuộc đời ở
tuổi 52. Hai ngày sau, người ta chở linh cữu ông đến nhà thờ Saint-Etienne-
du-Mont làm lễ rửa tội, và tại nghĩa trang Batignolles trên ngôi mộ ông là
trận mưa của những lời ai điếu. Tất cả những người lính già lớn bé đều có
mặt, run rẩy bước đi trong giá lạnh: Léon Daudet, Raoul Ponchon,
Courteline, Heredia, Laurent Tailhade, Jean Richepin, Sully Prudhomme,