cung… bỗng nửa đêm Đại vương lại triệu vào, hỏi ta có biết độc dược này
còn có thể hại chết trẻ con… Đại vương nói Đông Lâm vương hôn mê có
mấy ngày thì không đủ để Đông Lâm đại loạn, giả dụ Đông Lâm mất đi hai
vị vương tử nhỏ tuổi, nội loạn sẽ kéo dài đến vài năm… Sính Đình, sau đó
ta bị giam trong cung, tin tức không thể ra được đến ngoài, đúng là tin tức
không thể lọt được ra ngoài! Tắc Doãn… Tắc Doãn lại không có ở Bắc Nha
Lý…”. Đã lo lắng không yên bao ngày nay, lúc này Dương Phượng không
nén nổi mà khóc òa lên.
“Dương Phượng…” Sính Đình khó khăn nhổm dậy, mái tóc đen xõa
sang một bên mặt tiều tụy. Nàng gắng gượng xuống giường, lê bước đến
trước mặt Dương Phượng, vịn tay lên bờ vai run rẩy của nàng ấy, nhìn
chằm chằm bằng hữu của mình, “Dương Phượng, là ai đã nói bí mật của
mê dược cho Bắc Mạc vương? Tỷ nói đi, chắc chắn tỷ biết, đúng không?”.
“Ta…” Dương Phượng nước mắt lưng tròng, lắc đầu trước ánh mắt
của Sính Đình, giọng thê thảm, “Đừng hỏi, Sính Đình, muội đừng hỏi”.
Sính Đình nhìn chằm chằm vào Dương Phượng, ánh mắt vô cùng sắc
bén, rồi chợt tối sầm, chỉ còn lại quầng mắt tối om và nỗi đau không thể
nào tin. Nàng nín thở, thận trọng nhả ra hai chữ: “Hà Hiệp?”.
Dương Phượng không đành lòng quay qua chỗ khác.
Sính Đình buông hai vai Dương Phượng ra như một người vô tri, ngồi
phịch xuống đất, môi run run, mãi sau mới rặn ra được nụ cười thê thảm:
“Chắc chắn rồi, ngoài Hà Hiệp ra, còn ai biết được bí mật của độc dược
này? Độc dược là do hai người bọn muội tự tay nghiền ngẫm mà thành”.
Sững sờ hồi lâu, lại như nghĩ ra điều gì, nàng gắng gượng ngồi lên.
Dương Phượng tiến tới đỡ nàng, nhưng bị nàng xua tay cự tuyệt. Nàng cắn
răng vịn ghế đứng dậy, trầm giọng: “Chuẩn bị ngựa”.