biết chạy rồi, tỷ không biết nó nghịch đến thế nào nữa đâu”.
Cũng giống như Trường Tiếu, Tắc Khánh không hay khóc, cái mông
nhỏ bị mẫu thân phát một trận bỗng chốc không thấy đau, cứ đòi xuống đất.
Đánh hài nhi vài cái, trong lòng cũng thấy xót nên Dương Phượng lại thả
nó xuống.
“Ha ha…Tiếu Tiếu… Tiếu Tiếu…” Tắc Khánh chân vừa chạm đất đã
vụt khỏi lòng mẫu thân, chạy tới bên Trường Tiếu đang cười vui vẻ, tóm
lấy tiểu đệ lôi ra ngoài: “ Trúc… trúc…”. Tắc Khánh chạy nhanh hơn
Trường Tiếu rất nhiều, khiến Trường Tiếu cứ phải chập chững theo sau.
“Tắc Khánh, không được lắc cây trúc phơi y phục.” Dương Phượng
chạy theo ra cổng, giáo huấn, “ Mau thả tay ra, cẩn thận Trường Tiếu ngã
đấy”.
“Dương Phượng, mặc kệ chúng.” Sính Đình đi theo, đặt tay lên vai
Dương Phượng, cười nói, “Nhìn tỷ lo lắng kìa. Tỷ không cần lo cho Trường
Tiếu, cứ để chúng ngã, hài tử có ngã mới lớn được”. Nói rồi, Sính Đình
quay lại, nhặt thanh kiếm trên đất.
Đúng là một thanh kiếm tốt, lưỡi kiếm mỏng như lớp băng, chỉ cần
khẽ chạm vào, cảm giác lưỡi kiếm lạnh lẽo dưới ánh mặt trời như chạm đến
tận xương cốt. Sính Đình lật thanh bảo kiếm, thấy bên trên khắc hai chữ
“Thần uy” thì vô cùng ngạc nhiên.
Một lát sau, nàng mới buồn rầu hỏi: “Bảo kiếm Thần uy nổi danh
thiên hạ sao lại ở nơi này? Thật đáng tiếc…”.
Dương Phượng quay lại, thấy Sính Đình thẫn thờ cầm thanh kiếm,
bỗng giật mình. Hôm đó, Sở Bắc Tiệp lên núi tìm thê tử, biết tin Sính Đình
không còn nữa thì thất thần bỏ đi. Dương Phượng chưa từng nói với Sính
Đình việc này, cũng giấu cây bảo kiếm Thần uy của Sở Bắc Tiệp bỏ lại tận