gặp cách nhau cả chục năm. Sau này hình dung lại anh thấy hơi buồn cười
với cái cảm giác cụ Quảng Nam thì nhọn hoắt, cứng cỏi, còn cụ Nghệ An
nồng ấm, đôn hậu.
Năm 1926, Liệu và các bạn tổ chức rầm rộ đám tang Phan Chu Trinh,
mười bốn vạn người đi đưa. Không hẳn gần gũi, nhưng cụ là một biểu
tượng của lòng yêu nước, đáng để thanh niên đem ra mà kính phục.
Cái tình của Liệu đối với cụ Nghệ An hẳn là phải đậm đà, gần gũi hơn
là với cụ Quảng Nam. Vì, như nhiều bậc hậu sinh đang tìm đường, nhiều
khi chẳng tiện nói ra, anh vẫn ưa thích một bậc tiền bối có thái độ đối thoại
hơn. Được nói, và được nghe nói hẳn là một cảm giác thú vị, khác hẳn với
khi nghe một tiếng tăm lừng lẫy, ta tìm đến và chỉ được nghe những bài học
từ con người đinh ninh chỉ có mình đúng. Huống chi, Phan Bội Châu là bậc
quang minh chính đại. Đỗ đầu kì thi đình, được đi đây đó, cụ tiếp thu
những tư tưởng mới một cách có hệ thống chứ không “tráng men làm
màu”. Xa cách hẳn lối khôn vặt khôn vãnh kiểu Trạng Quỳnh, Trạng Lợn -
có người coi là một biểu hiện tâm tính Việt, cụ hành trạng đàng hoàng, phát
ngôn thẳng thắn. Đúng là một nhân cách lãnh tụ, khiến một thời, ai cũng
tưởng câu sấm “Nam Đàn sinh thánh... ” ứng vào cụ. Sự yêu mến, thân
thiết của Liệu với Phan Bội Châu khiến anh có những lúc giận cụ quá thể,
mà chỉ là do nghe từ xa, lại qua những tin tức mô tả cái bên ngoài, chả lý
đến tâm can người trong cuộc.
Ấy là vào năm 1939, trong cuộc du tình đến Huế của Liệu với Thu
Tâm cái cuộc mà tới tầm tuổi bẩy mươi, bà ghi nhớ là là “lần thứ tư” và
“cuối cùng”. Bà là Phạm Thị Bách, cô em họ của Phạm Thị Hồng, người
nữ khán hộ ở Côn Đảo từ năm ‘33.
Như thường lệ, Liệu và Thu Tâm thường chọn những nơi xa xôi để
gặp gỡ, chung sống. Tý thừa biết điều đó, nhưng dù sao cũng đỡ nặng nề
hơn. “Khuất mắt trông coi” mà, dù bà có vẻ đã nhìn nhận Thu Tâm như
“người em” trong nhà, đối xử phần nào ra vẻ một gia đình truyền thống ở