Quản đồn Nghĩa Lộ là Civet, hàng ngày liên lạc qua vô tuyến điện với
Hà Nội. Sau ngày 9 tháng 3, mọi thứ tắt ngúm. Tù nhận định: Hà Nội đã
trong tay Nhật rồi. Lực lượng Pháp ở Yên Bái, Lao Cai... phân hóa. Có tín
hiệu phái De Gaulle muốn gặp mặt, Liệu, cùng một người khác, được cử ra
tiếp. Lập trường, tôn chỉ, phân chia lực lượng trong tương lai bên tôi bên
anh thế nào đem ra bàn thảo rất hăng. Đang trong tù mà được bàn, chỉ có
mỗi chuyện phía kia biết mình có quần chúng đằng sau nên muốn lợi dụng
thôi, chứ còn gì. Việt Minh đương cả thế bên ngoài, thì chúng mình có thế
một chút.
Bàn thảo chưa đi đến đâu thì “phái De Gaulle” không đến nữa. Lực
lượng Pháp ở Nghĩa Lộ được tăng cường khi phó công sứ Yên Bái Pellier
từ tỉnh lỵ kéo lính tráng về. Có lẽ là thực dân, sau những ngày đầu hoảng
hốt, đã có một sách lược mới: né Nhật ở các trung tâm lớn, rút về vùng sâu
xa, đợi viện binh từ biên giới Trung Hoa, nơi quân Đồng Minh đang có ảnh
hưởng? Mình toàn người chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật, hai thằng
choảng nhau, nằm trong tay thằng nào trong tình hình xung sát này cũng dễ
bị tàn sát lắm. Tình hình nghiêm trọng đấy. Một ban chỉ huy trại được lập
ra, có Phạm Quang Thẩm, Nguyễn Sĩ Nghiêm, Vương Thừa Vũ, Trần Đức
Sắc (Văn Tân), và Liệu. Tình hình rất khẩn trương. Những người tù có một
trung đội thường trực, coi như “lực lượng vũ trang” - mà chẳng có vũ khí gì
cả - đề phòng sự biến. Và phân nhau chuẩn bị lương thực, thuốc men, bản
đồ, truyền đơn bằng quốc ngữ, chữ Nho, chữ Pháp, cả la bàn tự chế. Căng
như sợi dây đàn, vì địch có thể choảng ta, hay ta choảng trước, bất cứ lúc
nào cũng có thể. Những hành động theo từng tình huống, nay gọi “phương
án tác chiến” được đặt ra, báo động tập thử.
Dền dứ. Cảnh giác. Giữ miếng. Có những người lính đã bỏ đi mang
theo súng. Địch không dám đàn áp nhưng đề phòng rất mực. Rồi sự việc
xẩy đến bất thình lình, chả theo cái cách đã dự liệu nào.