những người này là động lực của cuộc khởi nghĩa kháng Pháp và nối liền
những tập đoàn lãnh đạo khởi nghĩa với nông dân địa phương.
Nói đến cuộc lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn đầu, có người thấy
giai cấp địa chủ là đối tượng của cách mạng ngày nay rồi chực phủ nhận cả
một bộ phận phong kiến đã có lúc lãnh đạo cách mạng. Có người dựa vào
lý luận nói giai cấp phong kiến địa chủ là kẻ thù của nông dân thì làm thế
nào lãnh đạo được nông dân. Những người này đã xa lìa thực tế, không đặt
giai cấp phong kiến địa chủ vào khung cảnh thuộc địa, lại cũng không thấy
mâu thuẫn dân tộc ở một xứ thuộc địa bao trùm cả mâu thuẫn giai cấp, mặc
dù mâu thuân dân tộc về thực chất vẫn là mâu thuẫn giai cấp.
Bước sang thế kỉ XX, Liệu cho rằng giai cấp phong kiến địa chủ lại
tiếp tục có sự phân hóa. Bên cạnh phái thủ cựu, những phong trào Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đều do sĩ phu tiến bộ trong giai cấp
ấy lãnh đạo, còn như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh thì đã bước dần vào
xu hướng dân chủ tư sản rồi, chưa nói đến Tân Việt. Vì chưa thấy sự phân
hóa ấy, cao trào quần chúng đầu tiên do Đảng lãnh đạo đã có những chỗ
đáng tiếc: Tài liệu về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 cho biết
rằng: những ngày đầu nhiều địa chủ phú nông cũng hưởng ứng theo phong
trào, sẵn sàng đem thóc gạo trong nhà ra cống cho xã hội. Nhưng với khẩu
hiệu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ”, những người trực tiếp lãnh
đạo phong trào hồi đó đã không nắm vững đường lối chính trị của Đảng, đã
làm cho công, nông bị cô lập và mặt trận dân tộc thống nhất bị tan rã và
không tranh thủ được trung tiểu địa chủ còn có thể đi được với cách mạng
đến một chừng mực nào, trong một phạm vi nào.
Sau giai đoạn đòi cải thiện dân sinh, dân chủ năm 1936-1939, Nhật
vào Đông Dương. Mặt trận Việt Minh thành lập, tập họp được mọi lực
lượng của các tầng lớp nhân dân, dẫn đến thành công của Cách mạng tháng
Tám. Tính chất dân tộc đã nổi bật lên trong sự kiện này. Nhắc đến đại địa
chủ, quan lại đã trở nên phản động, Liệu nêu lên “một sự thật không thể