thể sống như bọn nhà báo tự do được lắm chứ. Khối thằng danh nổi mà
thực lực đâu so nổi với mình, chỉ được cái cô đầu thổ đĩ là thành thần.
Thế thì đi đâu, thế nào, với ai, và nhất là lấy gì để đi? Liệu thiên về
phía Nam, nơi cuộc sống thoáng đãng, ít “mùi” Nho học hơn Hà Nội. Sài
Gòn, với những lề luật của xứ thuộc địa, nhất định là mở chứ không khép
hờ hờ như đất lề quê thói. Và kiếm ăn hẳn là cũng dễ, “xúc cái rổ xuống
nước cũng được mớ cá to” kia mà.
Và về phần chí hướng, Liệu cũng thấy khuôn khổ tự do trong Nam
thích hợp với mình hơn. Dù những bài báo, kí nhiều tên khác nhau, đem lại
chút vinh danh cho anh ở làng, nhưng Hà Nội vẫn cứ chật hẹp thế nào.
Những tộc người từ một làng quê lên sống bằng một nghề thủ công, dựng
đình đền, đem cả thành hoàng lên thờ, nó tạo ra cái bí bức. Liệu cũng đã
bớt phớn phở với những tư tưởng của Lương Khải Siêu, thấy nó “nửa vời”,
không đến nơi. Mà anh thì quá ghét thằng Pháp, thấy nó đứng đâu chỉ
muốn đem đất chỗ ấy xúc đổ đi. Đi Nam, vào chỗ “mùi Tây” nặng hơn, tức
là phải ngửi hít, chịu đựng những thói thực dân của chúng nó nhiều hơn rồi.
Mà mình phải sống được chứ không thể thành cái xác bón cây cao su như
đám phu mộ đang kìn kìn vào trong ấy...
Liệu thấy như bị bó chân. Lắm lúc mặt đần thối, đi đường làng dẫm
cứt trâu, chả khác ông khóa Cảo. Cứ miên man chả rứt ra được. Cô vợ trẻ
tất nhiên chả thích chồng lang bạt. Nghèo thì cũng có nhà có cửa rồi, ở nhà
rau cháo có nhau chả hơn à...
Cú hích để anh rời khỏi quê nhà là từ ông Bùi Trình Khiêm, bạn thân
anh Chước, một thời dạy Liệu học. Là nhà Nho có danh vọng nhất nhì vùng
Vụ Bản, ông Bùi lại thấm thía con đường cụt của đạo Thánh Hiền, nhất
quyết đoạn tuyệt với khoa cử ngay từ khi bỏ thi Hương. Học trò ông nhiều
người đã chuyển theo Quốc ngữ, vào trường Pháp - Việt hay sang ngạch kĩ
nghệ, buôn bán. Ít năm sau, ở Hà Nội, thông Vôi (Nguyễn Hữu Thu), ký