giáo trình thì Tây cấm ngặt. Đành gom nhặt những mẩu báo gói đồ tiếp tế,
“nghiên cứu” rồi đem hỏi, có khi “nghiên cứu” cả trong hố xí. Bên ngoài,
Tý rất chịu khó gửi cho anh những gói đồ tiếp tế mà báo gói nhiều hơn cá
khô, muối lạc.
- Từ này nghĩa là gì?
- Trật tự câu này thế nào?
- Mệnh đề nào là chính?
Cái mạnh của Liệu là kiến thức chính trị, kinh nghiệm sống. Thày giáo
bổ sung nghĩa từ, giảng văn phạm là anh “thủng”, trước biết ý nghĩa câu
văn, sau có thông tin về ngoài đời.
Sang năm 1929 lại có dịp tập trung lớn, lớn chưa từng thấy, tòa Nam
Kỳ cử đi bồi bổ kiến thức. “Khóa chuyên tu” dài những năm năm, “trường”
biệt lập, không có vợ con eo xèo, đám nặc nô đòi nợ, cũng chả lo viết báo
kiếm sống. “Trường” Côn Đảo cách đất hàng trăm cây số, Liệu được phân
về “lớp” Hòn Cau còn hẻo lánh hơn, tha hồ tập trung.
Côn Đảo tuy xa nhưng không phải không có liên lạc. Nhân vợ một mã
tà về Sài Gòn, Liệu nhắn Tý đang bán rau ở chợ Bến Thành gửi cho quyển
từ điển Larousse. Thay cho những mảnh báo tiếng Tây, anh có hẳn người
bạn nhỏ dầy cộp, cầm nặng tay, có điều giấu giếm khó. Một chương trình
nghiêm ngặt được đề ra: mỗi ngày học 200 từ với đầy đủ nghĩa đen, nghĩa
bóng, nghĩa rộng. Gốc dừa, vườn chuối, bãi cát là vở, mẩu gạch, khúc que
là bút, đâu đâu cũng chi chít chữ viết. Trong một tháng, Liệu học được
6000 chữ. Nhịp độ “nhồi” sau đó chậm lại vì cái đầu đã “đầy” dần. Hai
năm ở Hòn Cau, vốn tiếng Pháp của anh tăng vùn vụt, chỉ trừ sáu tháng
nằm liệt vì chuyến rong chơi xuống hang yến.
Có lần bạn tù trêu, thách Liệu nhớ hết nghĩa của một từ rất hóc hiểm.
“Lời giải” đâu ra đấy làm anh em phục lăn, gọi anh là “tự vị sống”. Dường