một mối bất an, không biết do đâu. Thế là tôi quyết định gát hướng Tây lại
ngày mai. Và tạm thời cũng bỏ qua hướng Bắc, tuy hướng này đưa ra biển.
Ba ngày sau, giữa một cơn bàng hoàng mê sảng, khi chúng tôi quyết định
từ giã hẳn chiếc phi cơ và bước thẳng tới phía trước cho tới lúc kiệt sức,
chúng tôi cũng lại nhằm hướng Đông mà đi. Đúng hơn là nhằm Đông Đông
Bắc, cũng một cách thật vô lý, và thật không hy vọng gì cả. Và sau này,
được giải cứu, chúng tôi mới nhận thấy rằng không một hướng nào khác có
thể giúp chúng tôi thoát nạn trở về, bởi vì nếu theo hướng Bắc thì nửa
đường kiệt lực, chúng tôi không làm sao đi cho tới biển. Nói ra nghe thật là
phi lý buồn cười, nhưng quả thật ngày nay tôi cảm thấy dường như rằng
trong lúc tịt mù phương hướng, không có một chút chỉ dẫn nào hoặc nhiếp
triệu nào để dựa vào mà chọn hướng đi, thì tôi đã chọn hướng Đông
chỉ
bởi cái lý do duy nhất là hướng đó xưa kia đã từng giải cứu được người bạn
thân thiết của tôi là anh Guillaumet từng rơi lạc trong dãy Andes, nơi tôi đã
bay lùng khắp ngả tìm kiếm anh. Từ đó, về sau, đối với tôi, phương Đông
đã âm thầm trở thành phương trời của sự sống.
Đi suốt năm giờ, thì phong cảnh thay đổi. Một dãy cát uốn mình như một
dòng sông chảy giữa một miền thung lũng, và chúng tôi men theo đáy
thung lũng mà đi. Chúng tôi dấn bước thật nhanh, chúng tôi cần đi gấp, đi
xa được bao nhiêu hay bấy nhiêu và quay trở về trước lúc trời tối, nếu
không tìm kiếm được gì. Bất thình lình tôi dừng lại:
- Prévot.
- Gì?
- Những dấu chân…
Từ bao lâu chúng tôi đã quên không vạch đường làm dấu ở sau lưng?
Nếu không tìm lại được lối về, thì chịu chết.
Chúng tôi trở gót, nhưng chếch hướng về phía tay phải. Khi đã khá xa,
chúng tôi sẽ đâm ngang theo hướng thẳng góc với hướng ban đầu này, thì
thế nào cũng bắt gặp trở lại những dấu chân trên quãng đường có vạch dấu.