thì vẫn cất cánh bay tìm một kẽ hở trên không. Xế về phía Nam, anh tìm ra
nó, cái cạm bẫy kia, và lờ lững bay trên từng cao sáu nghìn năm trăm
thước, anh cưỡi trên mây mù chỉ cao sáu nghìn thước và để ló ra riêng
những chóp núi thật cao, anh bay, hướng về chân trời Argentine.
Những luồng không khí thổi xuống thường gây cho phi công một cảm
giác khó chịu dị thường. Máy vẫn quay đều, nhưng phi cơ bị dìm xuống
mãi. Ta cố gượng hướng tàu trở lên để giữ vững độ cao, phi cơ mất tốc lực,
yếu đi dần dần: ta cứ bị nhận chìm xuống mãi. Ta đành phải lơi tay, ngại
rằng khi nãy đã hướng mũi lên quá trớn, bây giờ ta lại phải thả lỏng cho xê
xích qua tả, qua hữu, nép vào bên những đỉnh núi thuận tiện, nương vào
những sườn non nào vừa cản gió vừa đưa đà, nhưng ta vẫn tuần tự bị dìm
xuống. Nghe chừng như cả cõi trời cùng đề hều hạ thấp xuống một phen.
Ta cảm thấy như mình bị mắc nghẹn trong một tai nạn càn khôn. Hết đường
trớ tránh. Ta luống cuống cố gắng quay trở lui, mong tìm gặp những khu
vực nào ở phía sau mà không khí sẽ nâng mình lên vững chắc và tròn đầy
như một cột trụ. Nhưng còn cột trụ nào đâu. Mọi vật rã tan, cả đất trời cùng
rủ nhau băng hoại, và ta lướt qua giữa tàn phế, hướng về một làn mây
đương nhu thuận dâng lên, mềm mỏng lại bên mình và yểu điệu quyện lấy
thân ta vào ở giữa.
Anh bảo: “Tôi suýt chịu bó tay, đành buông mình cho nó hãm, nhưng
còn chút cứng đầu chưa chịu tin thuận đâu. Ta gặp những luồng khí trút
xuống ở phía trên những đám mây xem có bề bất động, ấy chỉ vì cùng một
độ cao như nhau, chúng ôm lấy nhau tụ lại nghỉ yên triền miên bất tận. Mọi
sự sao mà kỳ dị thế ở những vùng non cao.”
Ôi những đám mây! Sao mà bướng bỉnh!
“Vừa mắc nghẽn trong đó, tôi liền thả lơi tay lái, bấu chặt vào ghế để
khỏi bị bắn tung ra ngoài. Phi cơ rít lên, lắc mạnh, dày vò thân tôi, những
sợi nịt da gặm vào thịt vai, và suýt đứt. Sương giá đổ tràn bụi trắng, tôi mất
hết mọi khả năng điều khiển, quay tròn như chiếc nón chơi vơi, xoay tít từ
cao sáu nghìn xuống ba nghìn thước rưỡi.