muộn rồi thì cũng lỉnh đi khỏi làng để không bao giờ trở lại và ngay cả cha
mẹ đẻ chúng, anh chị em chúng cũng sẽ không bao giờ nhắc đến chúng
nữa. Kunta thử hình dung mình lẻn đi khỏi Jufurê như một con linh cẩu
ghẻ, bị tất cả mọi người khinh rẻ, ý nghĩ đó thật quá khủng khiếp đối với
tâm trí nó.
Sau một lát, Kunta nhận ra là mình đang lơ mơ nghe thấy tiếng trống
và tiếng hò la của những người nhảy múa đằng xa. Thêm một quãng thời
gian nữa trôi qua. Mấy giờ rồi nhỉ, nó tự hỏi. Nó đoán bây giờ phải đến giờ
xutôba rồi, tức là giữa khoảng từ hoàng hôn đến bình minh, nhưng ít phút
sau, nó nghe thấy tiếng alimamô the thé gọi dân làng cầu kinh xafo, có
nghĩa là hai giờ trước nửa đêm. Tiếng nhạc dứt và Kunta biết rằng dân làng
đã ngừng vui chơi và cánh đàn ông đang hối hả tới nhà thờ.
Kunta cứ ngồi thế cho đến lúc nó biết rằng việc cầu nguyện đã xong
xuôi, nhưng nhạc không cử lại nữa. Nó lắng tai rất chăm chú, nhưng chỉ
nghe thấy im lặng. Cuối cùng nó ngủ gật, hồi lâu sau mới giật mình thức
giấc. Vẫn im ắng - và dưới cái mũ chụp, còn tối hơn cả một đêm không
trăng. Sau cùng, nó dám chắc đã nghe loáng thoáng tiếng sủa sớm của linh
cẩu. Nó biết cái giống linh cẩu bao giờ cũng sủa từng tiếng một trước khi
bắt đầu gào rền liên tục cho đến lúc tinh mơ rạng đông, nghe xa vắng kỳ lạ.
Trong tuần hội mùa, Kunta biết trống tôbalô cất tiếng trầm vang ngay
từ những tia sáng đầu tiên của rạng đông. Nó ngồi chờ điều đó xảy đến -
chờ bất kỳ điều gì xảy đến. Nó cảm thấy cơn giận dữ nung nấu, lòng ngóng
đợi tiếng trống tôbalô gióng lên vào bất cứ lúc nào, vậy mà chẳng thấy gì
cả. Nó nghiến răng kèn kẹt và đợi thêm một lúc nữa. Thế rồi cuối cùng sau
mấy lần lắc mình cho tỉnh, nó thiếp đi trong một một giấc ngủ chập chờn.
Nó gần như bổ choàng khỏi thần xác khi, rốt cuộc, trống tôbalô vang lên
thật. Dưới tấm vải chùm, hai má nó nóng bừng, bối rối vì nỗi đã ngủ thiếp
đi.