học được, chẳng bao lâu nó cùng các bạn sẽ nói được hầu hết những điều
mà cha anh chúng nói bằng thứ thoại ngữ bí mật của đàn ông.
Ở tất cả các lều, cứ mỗi một tuần trăng qua đi, bọn trẻ lại bỏ thêm một
hòn đá vào một cái bát để đánh dấu thời gian chúng đi xa khỏi Jufurê đã
được bao lâu. Mấy ngày sau khi hòn đá thứ ba được bỏ vào bát, một buổi
chiều, bọn trẻ đang đánh vật trong khu rào, đột nhiên chúng nhìn về phía
cổng trại và thấy sừng sững đứng đó một toán từ hai mươi lăm đến ba mươi
người đàn ông. Đám thiếu niên há hốc miệng thở hổn hển khi nhận ra đó là
bố chúng, các chú các bác và các anh lớn chúng. Kunta nhẩy bật lên, không
thể tin ở mắt mình, niềm vui như một mũi tên xuyên suốt người nó khi nhìn
thấy Ômôrô lần đầu tiên sau ba tuần trăng. Song hình như có một bàn tay
vô hình nào đó giữ nó lại và dập tắt một tiếng kêu mừng rỡ, ngay cả trước
khi nó thấy mặt bố nó không lộ vẻ gì là nhận ra con trai của mình.
Chỉ có một thằng lao ra, kêu tên bố, và chẳng nói chẳng rằng, ông bố
đó với lấy chiếc roi của người phụ tá kintangô đứng gần mình nhất, vừa
quật thằng con vừa nghiêm khắc quát mắng nó về tội đã phơi bày nỗi xúc
động của mình, tỏ ra vẫn còn là một thằng bé. Trong khi đánh những nhát
roi cuối cùng, người đó cảnh cáo thêm thằng con trai một cách không cần
thiết rằng nó đừng có hy vọng được bố ưu đãi. Rồi đích thân kintangô hô
một mệnh lệnh cho toàn thể lứa kafô nằm sấp bụng xuống thành một hàng
và tất cả những người khách đi dọc theo hàng đó, lấy gậy đi đường của
mình quất xuống những cái mông chổng lên. Lòng Kunta xáo lộn cả lên, nó
không phản đối chuyện đánh đòn vì biết đó chỉ là một kỷ luật nghiệt ngã
khác của việc rèn luyện trưởng thành, song nó đau đớn không được ôm ghì
lấy bố thậm chí nghe tiếng bố nói, đồng thời lại thấy hổ thẹn vì nó biết rằng
ngay cả việc mong muốn những nuông chiều ấy cũng không phù hợp với
khí phách nam nhi.
Xong mục đánh đòn, kintangô hạ lệnh cho bọn trẻ chạy, nhảy, múa,
vật nhau, cầu nguyện như chúng đã được dạy, và đám phụ huynh lặng lẽ