đến cái trống mà nó sắp làm cho mình - trước hết là làm trong tưởng tượng
như những người đẽo mặt nạ và con giống vẫn làm thế. Về mặt trống thì nó
đã có một tấm da dê non đã cạo gột và đang sấy khô trong lều và nó biết
đích chỗ có thể kiếm được thứ gỗ cứng cần thiết để làm một cái khung
trống thật khỏe - chỉ quá đám ruộng lúa của phụ nữ một quãng ngắn thôi.
Kunta gần như hình dung thấy được cái trống tương lai của mình kêu ra
sao.
Khi con đường mòn đi vào một khóm rừng cây sát bên cạnh, Kunta
riết chặt cây dao mang theo như đã được dạy. Nó tiếp tục đi một cách thận
trọng - rồi dừng lại và rất lặng lẽ nghe ngóng. Lamin giương to mắt đứng
đằng sau nó sợ hãi nín thở. Nhưng một lát sau, thằng anh bớt căng thẳng và
lại cất bước tiến về phía mà nó nhẹ nhõm nhận ra là có tiếng nhiều người
đàn ông đang hát một bài hò lao động. Phút chốc, nó và Lamin tới một
quãng rừng thưa và trông thấy mười hai người đang căng thừng kéo một
chiếc thuyền độc mộc. Họ đã hạ một cây, đốt và phát hết cành lá và giờ đây
đang bắt đầu chuyển nó ra sông. Cứ kéo hết một cữ dây, họ lại hò sang câu
sau, mỗi câu đều tận cùng bằng "Tất cả một lòng!" rồi lại ráng sức kéo
chiếc thuyền đi khoảng một sải tay nữa. Đi qua đám người, Kunta giơ tay
vẫy và họ cũng vẫy lại, nó định bụng lát sau sẽ nói cho Lamin biết những
người đó là ai và tại sao họ lại làm thuyền bằng một cái cây mọc trong rừng
sâu này mà không chọn chỗ ở gần bờ sông: họ là người làng Kêrêoan, nơi
làm thuyền độc mộc cừ nhất trong dân tộc Manđinka và họ biết chỉ có gỗ
cây rừng mới nổi.
Lòng trào lên nồng ấm, Kunta nghĩ về ba thanh niên làng Bara mà hai
anh em nó đang rong ruổi đường trường để tới gặp. Thật kỳ lạ, tuy trước đó
chưa gặp nhau bao giờ mà tưởng như là anh em vậy. Có lẽ vì họ cũng là
người Manđinka. Cách họ nói năng có khác Kunta, nhưng trong lòng, họ
không khác. Cũng như họ, Kunta đã quyết định rời làng đi tìm kiếm thần
tài của mình - và chút ít hồi hộp - trước khi trở về nhà trước những đợt mưa
lớn sắp tới.