thấy thức ăn vón thành một cục trong bụng và phút chốc, nó dâng lên tận cổ
họng. Anh không hãm nó lại được và lát sau, bao nhiêu cháo lại ộc ra ván
nằm. Qua tiếng nôn ọe của chính mình, anh nghe thấy nhiều người khác
cũng thế.
Khi ánh đèn tới gần cuối dãy ván dài ở tầng Kunta nằm, bỗng nhiên
anh nghe tiếng xiềng loảng xoảng, tiếng một cái đầu cụng vào gỗ, rồi một
người tru tréo điên cuồng bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ pha trộn tiếng
Manđinka vớ một số chữ nghe như tiếng tubốp vậy. Bọn tubốp khiêng
thùng thức ăn phá lên cười ầm ĩ, rồi những chiếc roi của chúng vun vút
giáng xuống cho đến khi những tiếng kêu của gã đàn ông nọ bặt dần thành
tiếng lắp bắp và thút thít. Có thể nào lại như thế? Phải chăng anh đã nghe
thấy một người châu Phi nói tiếng tubốp? Phải chăng ngay giữa bọn họ ở
dưới này cũng có hắc gian? Kunta đã từng nghe nói là bọn tubốp thường
hay lật lọng với lũ phản bội da đen giúp việc chúng và quẳng lũ này vào
cảnh xiềng trói.
Sau khi bọn tubốp tiếp tục xuống tầng dưới, hầu như không nghe thấy
tiếng động nào ở tầng Kunta cho đến khi chúng lại xuất hiện với chiếc
thùng rỗng và leo ra ngoài hầm, đóng cửa lại. Lúc đó, một làn sóng phẫn nộ
bắt đầu lao xao lên bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, như ong kéo bầy. Rồi
cuối dãy ván Kunta nằm, có một tiếng xích loảng xoảng nặng nề quật
xuống, một tiếng rống đau đớn và tiếng nguyền rủa cay độc vẫn bằng cái
giọng Manđinka đầy kích động kia. Kunta nghe thấy gã nọ tru tréo lên:
"Các người tưởng ta là tubốp chăng?". Lại có những cú đánh mạnh hơn,
nhanh hơn và những tiếng la tuyệt vọng. Rồi đòn đánh dừng lại và trong
bóng tối của hầm tàu vẳng lên một tiếng thất thanh - rồi một tiếng ằng ặc
ghê sợ, như của một người bị bóp cổ. Một tiếng xích loảng xoảng tiếng gót
chân giãy giụa đập xuống ván sàn, rồi im lặng.
Đầu Kunta thình thịch và tim anh đập như trống làng khi các giọng nói
xung quanh bắt đầu gào lên: "Hắc gian! Bọn hắc gian phải chết? Rồi Kunta