Một lát sau, anh nghe thấy một tiếng thì thầm nhỏ bên tai phải. "Jula!"
Tim Kuta giật đánh thót. Anh biết rất ít tiếng Uôlôf, nhưng biết người
Uôlôf và một số bộ tộc khác dùng chữ Jula để chỉ những lữ khách và
thương khách thường thường là người Manđinka. Và xoay đầu lại gần
người Uôlôf hơn một chút, Kunta thì thào: "Jula, Manđinka". Hồi lâu, trong
khi anh nằm im, tâm trí căng thẳng, người bạn Uôlôf không hé răng đáp lại.
Trong đầu Kunta lóe lên ý nghĩ rằng giá anh có thể nói được nhiều thứ
tiếng như hai ông bác... song anh lấy làm xấu hổ vì đã đưa các bác đến nơi
này, dù chỉ trong ý nghĩ.
"Uôlôf, Jêbu Manga", cuối cùng, người kia thì thào. Và Kunta hiểu đó
là tên bác ta.
"Kunta Kintê", anh thầm thì đáp lại.
Thỉnh thoảng trao đổi rì rầm trong nỗi khát khao tuyệt vọng muốn
được giao lưu, họ lẩy trí óc nhau, người nọ học tiếng người kia, đây một
chữ, kia một chữ. Y như thể học những chữ đầu tiên hồi ấu thơ vậy. Trong
một quãng ngắt hai bên cùng im lặng, Kunta nhớ lại một đêm gác ngoài
ruộng lạc phòng khỉ đầu chó, đống lửa đằng xa của một mục đồng người
Fula đã đem lại cho anh một cảm giác ấm cúng như thế nào và anh đã ước
ao có cách gì để trao đổi vài lời với người đó mà anh chưa hề gặp mặt.
Dường như lời cầu ước đó giờ đây đang được thực hiện, chỉ khác cái đây là
người Uôlôf suốt bao tuần cùng nằm đó, cùm chặt vào nhau, mà không thấy
mặt.
Giờ đây Kunta moi từ trí nhớ ra tất cả những từ ngữ Uôlôf mà anh đã
từng nghe thấy. Anh biết người bạn Uôlôf cũng đang làm như thế với
những từ Manđinka mà bác ta biết nhiều hơn là anh biết tiếng Uôlôf. Trong
một đợt im lặng khác nhau giữa hai người, Kunta cảm thấy là người nằm
mé bên kia, vốn trước nay không hề thốt ra lấy một tiếng ngoài việc rên
rẩm kêu đau, giờ đây đang dỏng tai chăm chú nghe họ trò chuyện. Qua
tiếng rì rầm lan dần ra khắp tàu, Kunta nhận ra rằng, một khi đám tù nhân