những roi đòn, chúng để mặc thằng bé chảy máu đến chết. Càng nghe,
Kunta càng căm phẫn cho những người khác cũng như cho mình.
Anh nằm đó, trong bóng tối, văng vẳng bên tai lời cha nghiêm khắc
dặn dò anh và Lamin không bao giờ được lang thang đi xa một mình; một
cách tuyệt vọng, Kunta ước gì giá mình đã chú ý nghe theo lời cảnh cáo của
cha. Tim anh trĩu xuống với ý nghĩ rằng anh sẽ không bao giờ được nghe
cha răn bảo nữa, rằng từ nay đến hết đời - dù cuộc đời đó có xoay vần ra
sao chăng nữa - anh sẽ phải tự suy nghĩ lo liệu lấy cho bản thân.
"Mọi sự đều là ý của Chúa Ala!" Lời phát ngôn đó - khởi đi từ chỗ vị
thủ chỉ - truyền từ miệng người này sang tai người kia và khi nó được
người nằm bên trái Kunta nhắc lại, anh bèn quay đầu thì thầm với người
bạn cùm Uôlôf. Sau một lát, Kunta nhận ra là người Uôlôf không tiếp tục
truyền câu đó cho người bên cạnh và sau khi băn khoăn tự hỏi lý do vì đâu
anh cho rằng có lẽ tại mình nói không rõ, cho nên anh lại bắt đầu thì thầm
câu sấm ngữ một lần nữa. Nhưng bất thình lình, người Uôlôf văng ra những
tiếng khá to, đủ để cả căn hầm nghe thấy: "Nếu Chúa Ala của các người
muốn thế, thà tôi theo quỷ sứ còn hơn!" Từ các nơi khác trong bóng tối,
vang lên những tiếng hô tán đồng với người Uôlôf và đây đó bùng ra những
cuộc tranh cãi.
Kunta bị xáo động sâu sắc. Sự bất bình vì nhận ra là mình nằm cùng
với một kẻ vô đạo xói vào óc anh như một vết bỏng, vì đối với anh lòng tin
ở Chúa Ala cũng quý giá như bản thân cuộc sống vậy. Cho đến nay, anh
vẫn tôn trọng tình hữu hảo và những ý kiến lịch lãm của người bạn cùm lớn
tuổi. Song giờ đây, Kunta biết rằng giữa họ không thể tồn tại bất kỳ tình
bằng hữu nào nữa.