mình anh khâm phục sự dũng cảm của người Uôlôf đã chết như một chiến
sĩ. Anh nhớ lại cái dự cảm rấm rứt của chính mình, là thủ lĩnh người Fula
sẽ ra hiệu tấn công - nhưng hiệu lệnh đó đã không đến. Kunta thấy chua
xót, vì bất kể cơ sự có thể xoay vần ra thế nào, lẽ ra bây giờ mọi chuyện đã
xong cả rồi; và tại sao lại không chết luôn đi? Liệu thời kỳ sắp tới có tốt
đẹp hơn gì không? Có lý do gì để tiếp tục níu lấy cái cuộc sống ở đây trong
bóng tối xú uế này? Anh hết lòng cầu ước giá mình có thể trao đổi với
người bạn cùm như trước đây, song khốn nỗi bác ta lại là người vô đạo.
Những tiếng xầm xì tức giận vì nỗi người Fula đã bỏ qua không hành
động, ngừng bặt khi một lệnh đột ngột được truyền đi từ chỗ bác ta: lần sau
bác ta thông báo khi anh em ở tầng hầm này lên tắm và nhảy xiềng trên
boong sẽ khởi sự tấn công vào lúc bọn tubốp tỏ ra lơi lỏng nhất. "Nhiều
người trong chúng ta sẽ chết", người Fula nói "như người anh em vừa rồi
đã chết vì chúng ta - song anh em ở tầng dưới sẽ báo thù cho chúng ta".
Những tiếng trầm trồ tán thưởng lan đi. Nằm trong bóng tối, Kunta
lắng nghe tiếng một cái giũa đánh cắp được đang xèn xẹt cứa vào dây
xiềng. Hàng tuần nay, anh vẫn biết rằng những vết giũa được trét cẩn thận
bằng các thứ bẩn thỉu để bọn tubốp khỏi trông thấy. Anh khắc vào tâm trí
bộ mặt của những tên quay bánh xe lớn của con tàu vì chúng sẽ là những
tên duy nhất được tha mạng sống.
Nhưng trong cái đêm dài ấy dưới hầm tàu, Kunta cùng những người
khác bắt đầu nghe thấy một âm thanh mới kỳ lạ trước đây chưa từng thấy.
Hình như nó từ phía trên đầu họ, lọt qua sàn boong xuống. Im lặng xập
xuống nhanh chóng trong khoang hầm và nghe thật kỹ, Kunta đoán là
những cơn gió lớn đang làm cho những tấm vải trắng lớn kêu phần phật
mạnh hơn lúc bình thường nhiều. Phút chốc lại có một tiếng khác, như thể
đổ gạo xuống sàn tàu; lát sau anh đoán là mưa đang trút xuống. Rồi anh
chắc chắn, không thể lầm lẫn, là đã nghe văng vẳng tiếng sấm nổ rền nặng
nề.