Giờ đây, những bọng máu cứ long tong giỏ từ ván nằm xuống lối đi và
bọn tubốp không có cách nào tránh khỏi quệt phải hoặc giẫm lên nó khi
chúng xuống hầm. Bây giờ, mỗi ngày tù nhân lại được đưa lên boong, trong
khi bọn tubốp mang những xô dấm và hắc ín xuống đun sôi bốc hơi để tẩy
uế hầm tàu. Kunta cùng các bạn tù chệnh choạng trèo lên qua cửa hầm, đi
qua boong tới gieo mình xuống một chỗ và chỗ đó phút chốc đã bê bết máu
từ lưng họ và phân lỏng bài tiết từ ruột họ. Mùi không khí thoáng mát như
truyền khắp người Kunta, từ đầu đến chân và khi trở về hầm, mùi dấm và
hắc ín cũng tác động như vậy, mặc dầu nó chẳng bao giờ có thể dập tắt
được sự hôi thối của kiết lỵ.
Trong cơn mê sảng, Kunta thấy loé lên hình ảnh bà nội Yaixa nằm
chống tay trên giường nói chuyện với anh lần cuối cùng, khi anh mới là
một đứa con nít, và anh nghĩ tới bà Nyô Bôtô, tới những truyện cổ tích bà
kể hồi còn ở lứa kafô đầu, như chuyện con cá sấu bị mắc bẫy trên sông và
chú bé đến giải thoát cho nó. Miệng rên rẩm và lắp bắp, anh vùng vẫy cấu,
đạp mỗi khi bọn tubốp đến gần.
Chẳng bao lâu, phần lớn tù nhân không đủ sức bước đi nữa và bọn
tubốp phải dìu họ lên boong để tên tóc bạc có thể bôi cái thứ thuốc mỡ vô
hiệu của hắn giữa ánh sáng ban ngày. Ngày nào cũng có người chết và bị
vứt qua lan can tàu, trong đó có mấy phụ nữ nữa và hai trong bốn đứa nhỏ -
kể cả một số tubốp. Nhiều tên tubốp sống sót phải khó nhọc lắm mới lê
được cái thân xác đi quanh quẩn và một trong những tên điều khiển bánh
xe của con xuồng lớn phải đứng sẵn trong một cái chậu hứng phân kiết lỵ
của y.
Ngày và đêm cứ quyện lẫn vào nhau, cho đến một hôm, Kunta và một
số ít tù nhân khác còn có thể lê lết lên khỏi cửa hầm, bỗng trố mắt ngạc
nhiên nhìn một tấm thảm rong biển màu vàng óng đang dập dềnh trên mặt
nước ở mãi cuối tầm nhìn của họ. Kunta biết rằng biển không thể cứ kéo
dài đến vô tận và giờ đây xem chừng như con xuồng lớn sắp sửa đi quá bờ