song phần lớn anh chỉ nằm trong bóng tối hôi thối, mắt dính nhoèn một
chất rử vàng vàng, hầu như không ý thức được là mình hãy còn sống.
Anh nghe thấy những người khác kêu la hoặc cầu Chúa Ala cứu vớt,
nhưng anh chẳng biết hoặc chẳng cần biết họ là ai. Anh thường vật vờ chìm
trôi vào những giấc ngủ thảng thốt, chập chờn những mảnh mộng linh tình,
nào là thấy mình đang làm đồng ở Jufurê, nào những trại ấp xanh rờn cây
lá, nào cá nhảy tanh tách từ mặt sông phẳng như gương, nào đùi nai nướng
trên đống than hồng, nào những bầu nước trà bốc hơi pha mật ong. Rồi trở
lại thao thức, đôi khi anh nghe thấy mình đang lảm nhảm thốt ra những lời
dọa nạt cay độc không ăn nhập vào đâu, rồi, ngược với ý muốn của mình,
lại lớn tiếng cầu xin được nhìn thấy gia đình lần cuối cùng. Mỗi một người
thân - Ômôrô, Binta, Lamin, Xuoađu, Mađi - là một hòn đá trong tim anh.
Lòng anh quặn đau khi nghĩ rằng mình đã gây buồn khổ cho họ. Cuối cùng
anh cố lái tâm trí hướng sang chuyện khác nhưng không ăn thua. Ý nghĩ
của anh cứ luôn luôn quay về một cái gì đại loại như cái trống mà anh sắp
sửa làm cho bản thân mình. Anh nghĩ đến chuyện đáng lẽ phải có thể tập
xử trống trong những đêm gác ngoài ruộng lạc, ở đó không ai nghe thấy
được những chỗ đánh lỗi... Nhưng đến đây, anh lại nhớ đến hôm đi đẵn cái
thân cây để làm trống và tất cả mọi chuyện lại ùa trở về trong đầu.
Trong số những người còn sống, Kunta là một trong những kẻ cuối
cùng còn đủ sức tụt khỏi ván nằm và leo các bậc thang lên boong, không
cần có người dìu. Nhưng rồi đôi chân kiệt lực của anh cũng bắt đầu run và
bủn nhủn, và cuối cùng, cả anh nữa cũng phải nửa khiêng nửa kéo lết lên
boong. Anh ngồi rũ ra, rên khe khẽ, đầu gục giữa hai đầu gối, mắt toét
nhoèn nhắm tịt, chờ đến lượt làm vệ sinh. Bọn tubốp giờ đây dùng một
miếng bọt bể lớn có thấm xà phòng, vì sợ bàn chải cứng sẽ làm trầy thêm
lưng những người tù vốn đã rách nát và ứa máu. Dù sao Kunta cũng vẫn
còn khá hơn số đông chỉ còn nằm nghiêng được, coi bộ như đã ngừng thở.