bằng gạch hình chữ nhật, có những song sắt rào những ô trồng dọc sườn
nhà. Bọn tubốp gác cổng quật roi lùa đoàn người bị xiềng vào trong sân, rồi
vào một căn phòng lớn. Chân Kunta thấy man mát khi đặt lên sàn nhà rắn
chắc. Trong ánh sáng lờ mờ lọt qua hai ô mở rào chấn song sắt, đôi mắt hấp
háy của anh nhận ra năm bóng người da đen nép vào nhau dọc một bức
tường. Thậm chí họ cũng không buồn ngẩng đầu lên khi bọn tubốp khóa cổ
chân, cổ tay Kunta và đồng bạn vào những còng sắt dày kèm những đoạn
xích ngắn gắn vào tường.
Cùng với anh em khác, Kunta co ro ngồi xuống, tỳ cằm vào hai đầu
gối bó lại, tâm trí choáng váng, quay cuồng với tất cả những gì đã trông
thấy, nghe thấy và ngửi thấy từ lúc bước chân khỏi con xuồng lớn. Một lát
sau, một người da đen khác bước vào. Không nhìn ai cả, anh ta đặt trước
mỗi người vài hộp sắt tây đựng nước và thức ăn, rồi vội vã bỏ đi. Kunta
không đói, song cổ anh khô se lại, đến nỗi cuối cùng, anh không thể ngăn
mình hớp một chút nước; mùi nó là lạ. Anh đờ đẫn ngắm ánh ngày tàn dần
và chuyển thành bóng tối qua những khoang rào chấn song sắt.
Càng ngồi đó Kunta càng ngụp vào một nỗi kinh hoàng không thể xác
định. Anh cảm thấy hầu như thích cái hầm tàu tối mít hơn, vì ở đó, ít ra anh
đã đạt đến chỗ đoán biết được điều gì sắp đến. Anh rúm người lại mỗi khi
có một tên tubốp vào buồng ban đêm; mùi chúng lạ lẫm và nồng nặc. Anh
đã quen với những mùi khác nhau - mồ hôi, nước đái, những thân người
bẩn thỉu, mùi thối hoắc khi một tù nhân nào đó quằn quại tháo dạ, trong khi
những người khác vừa cầu kinh, vừa chửi thề, vừa rên rẩm, vừa giựt xiềng
loảng xoảng.
Bỗng nhiên, mọi tiếng ồn ào ngừng bặt khi một tubốp bước vào, mang
theo một cái đèn như loại được dùng ở trên con xuồng lớn và đằng sau hắn
là một tubốp khác đang lấy roi đánh một người da đen mới, người này kêu
những câu gì nghe như tiếng tubốp. Phút chốc, anh ta bị xiềng lại và hai tên