bùn và lông con ủn ỉn. Những người đen này chưa bao giờ biết được ý
nghĩa việc đổ mồ hôi dưới ánh mặt trời không phải vì bọn chủ tubốp, mà vì
bản thân và đồng bào mình.
Nhưng dù có phải ở lẫn với họ lâu đến đâu chăng nữa, Kunta cũng
nguyện sẽ không bao giờ trở nên giống họ và mỗi đêm, tâm trí anh lại thám
hiểm tìm cách trốn khỏi vùng đất đáng khinh ghét này. Anh không khỏi tự
riếc móc hầu như hàng đêm về thất bại trước đó. Duyệt lại trong đầu cái thế
bị lũ chó rớt rãi ròng ròng dồn vào bụi gai, anh biết là phải có một kế hoạch
chu đáo hơn cho lần sau. Trước hết cần phải tự làm một lá bùa xaphi để bảo
đảm an toàn và thành công. Rồi phải tìm ra hoặc làm một thứ vũ khí gì đó.
Thậm chí một cái gậy vót nhọn cũng đâm được thủng bụng những con chó
- anh nghĩ bụng - và thế là lại có thể vọt xa trước khi gã da đen và lão tubốp
rẽ được bụi rậm tới chỗ anh quần nhau với lũ chó. Cuối cùng, phải làm
quen với thung thổ xung quanh để khi tẩu thoát lần nữa, có thể biết đường
mà tìm những chỗ ẩn náu tốt hơn.
Mặc dù thường thường mất tới nửa phần đêm nằm thao thức, trăn trở
với những ý nghĩ như vậy, bao giờ Kunta cũng dậy trước tiếng gà gáy đầu
gọi đám gia cầm khác hòa theo. Anh nhận thấy chim chóc ở đây chỉ ríu rít,
líu lo - khác hẳn tiếng quàng quạc ỏm tỏi đinh tai của những bầy vẹt xanh
đông đảo mở đầu buổi sáng ở Jufurê. Dường như ở đây chẳng có vẹt mà
cũng không có khỉ, cái giống này bên quê nhà bao giờ cũng khai ngày bằng
chí chóe trên cây, bẻ que ném xuống những người đứng dưới đất. Kunta
cũng không hề thấy có dê ở đây - một điều mà anh thấy khó tin chẳng kém
gì việc dân vùng này nhốt giống ủn ỉn ở trong chuồng - họ gọi chúng là
"lợn" hoặc "heo" - và thậm chí còn cho cái loài bẩn thỉu ấy ăn nữa.
Nhưng Kunta thấy tiếng kêu eng éc của con ủn ỉn cũng chẳng xấu gì
hơn thứ tiếng nói của bọn tubốp, sao mà chúng giống hệt nhau. Anh sẵn
sàng đổi bất cứ cái gì để được nghe, dù chỉ một câu, tiếng Manđinka hoặc
bất kỳ tiếng Phi nào khác. Anh nhớ những người bạn xiềng trên con xuồng