buồn nôn là việc nhìn thấy bọng đái của chúng được moi ra, thổi phồng lên,
buộc túm hai đầu và treo lên phơi khô dọc theo một hàng rào, chỉ có Chúa
Ala mới biết cái đó nhằm mục đích vô đạo gì.
Khi hái và vào kho xong xuôi khoản "pí ngô", Kunta cùng một số khác
được phái đến một lùm cây, họ được lệnh rung các cành thật mạnh cho các
hạt mọc trên đó rụng xuống đất để bọn trẻ thuộc lứa kafô đầu nhặt vào rổ.
Kunta nhặt một hạt giấu vào quần áo để lúc nào có một mình, ăn thử xem;
cũng không đến nỗi nào.
Khi nhiệm vụ cuối cùng được hoàn thành, họ lại được cất cử vào
những công việc sửa chữa cần thiết. Kunta giúp một người khác sửa lại một
hàng rào. Và cánh phụ nữ thì bận bịu tổng vệ sinh ngôi nhà trắng lớn và các
lều của chính họ. Anh trông thấy một số trong bọn họ giặt đồ, thoạt tiên
đem đun sôi trong một cái chậu lớn màu đen rồi lấy một miếng sắt tây rúm
ró xát trong nước xà phòng; anh ngạc nhiên không hiểu tại sao không ai
trong đám họ biết giặt quần áo cho phải lối bằng cách đập vào các tảng đá.
Kunta nhận thấy ngọn roi của "xú-ba-dăng" xem chừng đã thưa đi
nhiều, ít quật xuống lưng người hơn trước, anh cảm thấy trong không khí
có một cái gì tương tự như vào thời kì toàn bộ thu hoạch đã nhập kho an
toàn ở Jufurê. Thậm chí, trước cả lúc tù và thổi báo hiệu kết thúc ngày làm
việc, một số người da đen đã bắt đầu tí tửng, đú đởn ca hát với nhau. "Xú-
ba-dăng" thấy vậy thường quay ngựa và vung roi lên, nhưng Kunta dám
chắc hắn chỉ dọa thế thôi chứ thật tình cũng không định đánh. Và chẳng
mấy chốc các người khác cũng hòa theo, rồi cả cánh phụ nữ nữa - họ hát
những câu Kunta không hiểu gì cả. Lòng anh đầy ghê tởm đối với cả bọn
đến nỗi, cuối cùng khi hồi tù và báo cho mọi người ai về lều nấy, anh thấy
dễ chịu hẳn.
Tối tối, Kunta thường ngồi một mé ngay bên trong cửa lều, gót chân
dán xuống nền đất nện để đôi còng sắt đỡ chà vào cổ chân mưng mủ. Nếu
thoáng chút gió nhẹ, anh thích cảm thấy nó thổi trên mặt mình và nghĩ đến