nghe của "xú-ba-dăng" trong khi hắn cưỡi ngựa quanh quất đây đó. Và đôi
khi, có mặt Kunta ở ngay giữa bọn họ, những người này cất tiếng hát một
bài gì đó khiến cho anh, dù không hiểu lời vẫn biết rằng một thông điệp
đang được truyền đi, như kiểu tốp phụ nữ đã làm thế trên con xuồng lớn để
loan tin cho cánh đàn ông.
Khi bóng tối phủ lên các túp lều và ánh đèn thôi không lấp lánh ở các
cửa sổ ngôi nhà lớn nữa, đôi tai rất thính của Kunta thường phát giác ra
tiếng sột soạt lẹ làng của một, hai người đen luồn lách khỏi "xóm nô" - và
mấy giờ sau lại lẻn trở về. Anh thắc mắc không biết họ đi đâu, và để làm gì
và tại sao họ lại điên rồ quay trở về. Và sáng hôm sau, ngoài đồng, anh cố
đoán xem ai đã hành động thế, dù đó là ai mặc lòng, anh nghĩ mình có thể
tin cậy họ.
Tối tối, sau "bữa dạ chúc", đám người đen thường ngồi quanh đống
lửa nhỏ của bà bếp già cách chỗ Kunta hai căn lều và cảnh đó khiến lòng
Kunta tràn ngập nỗi sầu nhớ Jufurê, chỉ khác cái là ở đây phụ nữ ngồi lẫn
với đàn ông và một số người, cả nam lẫn nữ, phì phèo hút những tẩu thuốc
lá vô đạo, thỉnh thoảng lại lập lòe mờ mờ trong bóng tối đang gom lại. Ngồi
ngay bên trong cửa ra vào, hết sức lắng tai, Kunta có thể nghe thấy tiếng họ
trò chuyện trùm lên tiếng dế nỉ non và tiếng cú rúc trong rừng xa. Tuy
không hiểu lời, anh vẫn cảm thấy nỗi cay đắng trong giọng họ.
Bây giờ, ngay cả trong đêm tối, Kunta vẫn hình dung ra được bộ mặt
của bất cứ người da đen nào đang nói. Tâm trí anh đã sắp xếp giọng nói của
từng người trong số hơn chục người lớn tuổi vào với tên của bộ lạc mà anh
cảm thấy họ có nhiều nét giống nhất. Anh biết những ai trong bọn họ
thường hành động khinh suất, những ai ít khi hé miệng mỉm cười thậm chí
gần bọn tubốp cũng không.
Những cuộc họp mặt buổi tối ấy có một khuôn mẫu chung mà Kunta
đã thuộc. Người nói đầu tiên thường thường là bà già nấu bếp trong ngôi
nhà lớn. Bà diễn lại những điều "me-xừ" và "bà đầm" nói. Rồi đến gã da