"Mẹ ạ", anh nói, "những người đàn bà này bịt khăn trên đầu, nhưng họ
không biết thắt thế nào cho gọn; đồ nấu của họ chẳng mấy thứ không có
thịt hoặc mỡ của giống ủn ỉn nhơ bẩn, và ối người trong bọn họ đã ngủ với
bọn tubốp, vì con thấy con cái họ phải mang màu da tật nguyền mai mái
giở trắng giở đen".
Và anh nói chuyện với các em trai, thằng Lamin, thằng Xuoađu và
thằng Mađi, bảo chúng rằng ngay cả bậc huynh trưởng thông thái nhất cũng
không thể in sâu đầy đủ vào óc của chúng tầm quan trọng của nhận thức
này: con thú rừng đôc ác nhất cũng không nguy hiểm bằng một nửa loài
tubốp.
Và các tuần trăng cứ thế qua đi, và chẳng bao lâu "băng giá" đã tan
thành nước. Và ít lâu sau, cỏ non xanh rờn lại nhú lên qua nền đất đỏ sậm,
cây cối bắt đầu đâm chồi nảy lộc và chim chóc lại hót líu lo. Rồi đến mùa
cày và gieo trồng những luống đất dài bất tận. Cuối cùng, ánh mặt trời rọi
xuống làm đất nóng giãy đến nỗi Kunta phải bước thật nhanh và những lúc
cần dừng lại, cứ phải giậm chân hoài để khỏi bỏng rộp lên.
Kunta đã chờ thời và lo liệu công việc riêng, rình ngóng cơ hội những
kẻ canh giữ mình sơ ý rời mắt đi một lần nữa. Nhưng anh có cảm giác rằng
ngay những người da đen nọ cũng vẫn để mắt tới anh, kể cả những lúc "xú-
ba-dăng" và những tên tubốp khác không có mặt. Anh phải tìm cách nào để
khỏi bị theo dõi xít xao đến thế. Có lẽ anh có thể lợi dụng việc bọn tubốp
coi dân da đen không phải là người mà là đồ vật. Vì phản ứng của bọn
tubốp đối với những đồ-vật-da-đen ấy chừng như phụ thuộc vào hành động
của các đồ vật ấy như thế nào, nên anh quyết định xử sự hết sức kín đáo.
Tuy lấy thế làm điều tự khinh mình, Kunta vẫn buộc mình phải bắt
chước cách cư xử của những người đa đen khác mỗi khi bọn tubốp lại gần.
Dù cố gắng đến mấy, anh vẫn không thể nhăn nhở cười và xun xoe được,
song anh ráng tỏ ra thuận tình hợp tác, nếu không phải là thân thiện; và anh
hết sức làm ra vẻ bận rộn. Anh cũng đã học thêm được nhiều chữ tubốp