tay vào túi. Anh lấy ra một miếng thịt thỏ sấy nhúng xuống suối và bỏ vào
miệng nhai. Đất bên dưới anh êm và núng nính, những âm thanh duy nhất
lọt vào tai anh là tiếng cóc nhái, tiếng côn trùng và tiếng chim. Anh vừa
lắng nghe vừa ăn, và ngắm ánh mặt trời rắc những đốm vàng giữa màu
xanh của vòm lá trên đầu và anh tự nhủ cũng may mà mình không phải
chạy hết hơi hết sức và liền liền như lần trước, do đó dễ bị tóm gọn vì kiệt
sức.
Anh chạy đến hết buổi chiều và sau khi tạm nghỉ để cầu kinh lúc mặt
trời lặn, anh tiếp tục đi nữa cho đến khi bóng tối và mệt nhọc buộc anh phải
dừng lại để nghỉ đêm. Nằm trên nệm lá và cỏ, anh quyết định lần sau sẽ
dựng một cái lán bằng chạc cây, lợp mái cỏ như đã học được trong thời kì
rèn luyện trưởng thành. Cái ngủ đến sớm, song trong đêm, mấy lần anh
phải thức giấc vì muỗi và anh nghe thấy tiếng thú gầm gừ giết mồi ở đằng
xa.
Dậy cùng lúc với những tia nắng đầu tiên, Kunta mài vội lưỡi dao, rồi
lại lên đường. Lát sau, anh gặp một vệt đường mòn rõ ràng là đã có nhiều
người đi qua; mặc dù nhận thấy con đường đã lâu không ai lai vãng, anh
vẫn quay đầu ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh về rừng.
Mỗi lúc một đi sâu vào rừng, anh vung dao phạt luôn tay. Mấy lần anh
trông thấy rắn, nhưng hồi ở trại tubốp, anh đã được biết là rắn không cắn
trước trừ phi chúng sợ hoặc bị dồn vào thế cùng, cho nên anh mặc kệ cho
chúng trườn đi. Thỉnh thoảng, anh tưởng như nghe tiếng chó sủa đâu đây và
rùng mình, vì anh sợ cái mũi đánh hơi của chó hơn cả người.
Mấy lần trong ngày Kunta đâm quàng phải những chỗ cây lá rậm rạp
đến nỗi con dao của anh không đủ sức phát lấy một lối đi, và anh phải quay
lui tìm đường khác. Hai lần anh phải dừng lại để mài dao vì nó hình như
mỗi lúc một cùn đi mau hơn, nhưng sau đó, khi thấy không hơn gì, anh
đâm ngờ rằng sức mình đã bắt đầu suy vì phải luôn tay phạt đủ mọi loại
dây leo, tầm gửi và bụi rậm. Cho nên anh lại dừng chân ăn thêm ít thịt thỏ