sau tòa nhà lớn đi ra. Nhưng, hoặc là chị không nhìn thấy anh, hoặc là chị
làm như không thấy, chị cứ đi thẳng qua mặt anh tới nhà tiêu. Vậy ra, xét
cho cùng, chị cũng như những người khác thôi, anh biết thế từ lâu rồi. Thi
thoảng, Kunta cũng thấy tên tubốp cao lớn, y thường chui vào một chiếc xe
đen có hai ngựa kéo, do một gã đen ngồi ghế trước hối hả lái đi.
Sau mấy ngày nữa, Kunta bắt đầu đứng nán lại bên ngoài lều ngay cả
khi những người đi làm đồng trở về buổi chiều, lê bước trong một đoàn mệt
nhọc. Nhớ lại cái trại anh đã ở trước đây, anh lấy làm lạ tại sao không có
tên tubốp nào cưỡi ngựa cầm roi đi sau những người đen này. Họ đi qua sát
Kunta - dường như chẳng buồn để ý gì đến anh - và biến vào những túp lều
của mình. Nhưng trong vòng mấy phút sau, phần lớn lại trở ra ngoài, làm
các công việc vặt vãnh. Đàn ông thì bận bịu quanh chuồng ngựa, đàn bà thì
vắt sữa bò và cho gà ăn. Còn trẻ con thì xách nước và chuyển củi với tất cả
sức ôm của cánh tay chúng rõ ràng chúng không biết là nếu đem bó củi lại
đội lên đầu - cả đối với những xô nước cũng vậy - thì sẽ mang được nhiều
gấp đôi.
Ngày lại ngày, Kunta bắt đầu thấy rằng mặc dầu những người đen này
sống khá hơn đám người ở trại tubốp trước, song hình như họ vẫn không
nhận thức rõ hơn những người kia rằng họ là một bộ lạc mất gốc, rằng mọi
thứ tự tôn tự trọng nơi họ đã bị vắt kiệt đến nỗi dường như họ cảm thấy
cuộc đời mình đúng là phải như thế này. Tất cả mối quan tâm của họ chỉ là
làm thế nào khỏi bị đánh đập, có đủ thức ăn và một chỗ nào đó để ngủ.
Không có mấy đêm mà Kunta không nằm trằn trọc, giận sôi lên trước nỗi
khổ cực của những người đồng loại, thao thức mãi mới ngủ được. Khốn nỗi
họ dường như không hề biết là mình khổ. Vậy thì bận gì đến anh, nếu
những người này chừng như vẫn thỏa mãn với số phận não nùng của họ?
Anh nằm dài, cảm thấy mỗi ngày mình lại chết thêm một ít, trong khi mọi
người đều bằng lòng sống phần còn lại của mình thì anh lại cần tìm cách
trốn nữa, bất chấp khó khăn trở ngại hoặc hoàn cảnh. Dù sống hay chết,