cúng, với bức vách gỗ thỏi trát bùn và một ống khói bằng gạch làm lấy từ
trên mái loe rộng xuống đến cái lò sưởi lớn, cạnh đó lủng lẳng những dụng
cụ nấu nướng bóng lộn. và Kunta nhận thấy là không như lệ thường và như
anh, chỉ có một buồng với một cửa sổ, lều của Bel có những hai buồng và
hai cửa sổ, cả hai đều lắp cánh trượt có thể kéo xuống khi trời mưa hoặc trở
rét. Phòng đằng sau có che rèm, hiển nhiên là chỗ ngủ của chị và Kunta
luôn luôn giữ gìn không nghé mắt về phía cửa ấy. Trên cái bàn chữ nhật ở
giữa phòng anh đang đứng, có dao dĩa, cùi-dìa đựng trong một cái bình,
mấy bông hoa ngắt ở vườn của chị cắm trong một bình khác, và hai cây nến
đã thắp trong những giá vững chãi bằng đất sét, và mỗi đầu bàn là một
chiếc ghế có thành cao dựa lưng.
Bel mời anh ngồi vào một chiếc ghế đu gần lò sưởi. Anh làm theo,
ngồi xuống rất thận trọng, vì anh chưa bao giờ dây vào những thứ máy móc
kỳ cục như thế này, nhưng vẫn cố làm ra vẻ tự nhiên như Bel.
"Đây bận quá chưa kịp cả nhóm lửa", chị nói, và Kunta gần như nhảy
vọt khỏi chiếc ghế, sung sướng tìm ra một công việc để mó tay vào làm.
Đập mạnh hòn đá lửa vào thanh sắt, anh châm vào nắm bông sơ mà Bel đã
đặt dưới những nhánh thông nỏ làm nòm cho những thoi gỗ sồi và lửa
nhanh chóng bùng lên.
"Chả hiểu sao mà đây lại biểu đấy đến đây, nhà cửa tanh bành ra, mà
đây thì chưa kịp soạn sửa gì cả", Bel vừa nói vừa lăng xăng với đống nồi
niêu xoong chảo.
"Đây mí đấy việc gì mà vội", Kunta gượng đáp. Nhưng món gà luộc
sẵn với bánh hấp mà chị biết Kunta rất thích, chẳng mấy chốc đã sủi ùng
ục. Và khi dọn cho anh ăn, chị rầy anh sao mà ngốn ngấu thế. Nhưng anh
không vì thế mà bỏ cuộc cho đến đợt thứ ba; Bel ép anh ăn thêm, nói rằng
trong nồi vẫn còn chút ít nữa.