Trong chốn thánh đường chuồng ngựa, Kunta cáu kỉnh cho ngựa ăn,
dội nước và kỳ cọ cho chúng. Khi biết rằng đã đến giờ điểm tâm của ông
chủ, anh lại đi vòng quãng đường dài, tới cửa bếp ngôi nhà lớn; tại đây, anh
hỏi thím Xuki, hiện tạm thay Bel, xem mexừ có cần dùng xe hay không.
Chẳng buồn nói hoặc thậm chí ngoảnh lại, thím lắc đầu và rời khỏi căn bếp,
không mời anh ăn chút gì. Tập tễnh trở về chuồng ngựa, Kunta tự hỏi
không biết Bel đã kể với thím Xuki và chị Manđy những gì cho họ đi ngồi
lê đôi mách khắp xóm nô, rồi anh tự nhủ: mặc kệ!.
Anh phải làm một cái gì với bản thân mình; anh không thể nhởn nhơ
thêm hàng giờ quanh chuồng ngựa. Mang bộ đồ thắng đai cỗ xe ra ngoài,
anh bắt tay vào cái công việc quen thuộc là giết thì giờ bằng cách tra dầu
mỡ vào những thứ đó tuy không cần thiết, vì anh mới làm việc này cách
đây có hai tuần lễ. Anh muốn quay trở về lều để nhìn mặt đứa bé - và cả
Bel nữa - song cơn giận lại trào lên mỗi khi anh nghĩ đến nông nổi hiện tại:
Thật nhục nhã biết bao, ai đời vợ một người trong dòng họ Kintê mà lại
muốn cho con mình mang một cái tên tubốp nào đó! Đấy chỉ là bước đầu đi
tới chỗ phải tự khinh bỉ mình suốt đời thôi!
Vào quãng trưa, Kunta trông thấy thím Xuki đem vào cho Bel một nồi
thức ăn gì đó - có lẽ là một thứ xúp. Nghĩ đến chuyện ấy, anh bỗng thấy
đói; mấy phút sau, anh ra sau chuồng ngựa, nơi khoai lang vừa rỡ được chất
đống ủ dưới rơm; anh chọn lấy bốn củ nhỏ và - tự cảm thấy thương tâm vô
hạn - ăn sống tất cả để làm nguôi dạ dày.
Hoàng hôn xuống rồi anh mới quyết định về nhà. Khi anh mở cửa
trước và bước vào, buồng ngủ vẫn lặng tờ, không có tiếng Bel đáp lại. Có
thể chị đang ngủ, anh nghĩ thầm và cúi xuống thấp một ngọn nến trên bàn.
"Mình đấy à?".
Anh không hề thấy gì đặc biệt cộc cằn trong giọng nói của Bel. Ậm ừ
một cách chung chung, anh nhấc cây nến lên, kéo tấm rèm sang bên và đi