thể tìm thấy: thỏ rừng, sóc đất, chuột bụi, thằn lằn và có hôm cả một con gà
gô có cựa ranh mãnh định nhử Kunta ra xa tổ nó bằng cách kéo rệt một bên
cánh làm như bị thương vậy. Gần xế chiều bọn trẻ lột da, rửa sạch những
thú săn được trong ngày, lấy muối (mà bao giờ chúng cũng mang theo) ướp
những cỗ lòng, rồi nhóm lửa quay lên làm một bữa rôm rả.
Mỗi ngày ra bãi, dường như lại nóng nực hơn hôm trước. Càng ngày
ruồi sớm càng ngừng cắn dê hơn để đi tìm bóng râm và bầy dê khom mình
quỳ xuống để gặm lớp cỏ ngắn còn xanh bên dưới lớp cỏ cao đã khô nỏ.
Nhưng Kunta và các bạn thì hầu như không để ý đến tiết trời nóng nực.
Mình bóng nhẫy mồ hôi, chúng chơi đùa như thể mỗi ngày đều là ngày
phấn khởi nhất trong đời. Bụng căng tròn sau bữa ăn trưa, chúng vật nhau,
hoặc chạy thi, hoặc chỉ đơn thuần la hét và nhăn mặt chế diễu nhau, thay
phiên nhau cẩn thận gác bầy dê đang gặm cỏ. Chơi đánh trận giả, bọn trẻ
quật và xỉa nhau bằng những cây có rễ dày cho đến khi một đứa giơ một
nắm cỏ lên, ra hiệu giảng hòa. Rồi chúng hạ bớt sát khí bằng cách xoa chân
vào bộ lòng của một con thỏ vừa bị mổ, theo những truyện cổ tích chúng
được các bà già kể cho nghe, các chiến binh thật sự thường dùng dạ dày
cừu trong trường hợp đó.
Thỉnh thoảng, Kunta và các bạn đùa nghịch với lũ chó uôlô trung
thành của mình, giống này người Manđinka đã nuôi hàng thế kỷ nay, vì
chúng nổi tiếng là giống chó săn và bảo vệ tốt nhất trong toàn Châu Phi.
Không ai có thể tính được số dê và gia súc đã được cứu khỏi nanh vuốt của
bọn linh cẩu trong những đêm tối trời nhờ tiếng hú của chó uôlô. Nhưng
linh cẩu không phải loại thú mà Kunta rình khi chúng chơi trò đi săn. Trong
trí tưởng tượng của chúng, khi bò trườn trong đám cỏ cao rám nắng của
vùng xavan, mồi săn của chúng là tê giác, là voi, là báo và sư tử dũng mãnh
kia.
Đôi khi, một đứa trẻ theo đàn dê của mình tìm cỏ và bóng mát, loanh
quanh đâm tách rời khỏi các bạn. Trong một vài lần đầu tiên gặp tình trạng