gì".
Chiếc xe la lăn bánh yên lặng được một lát, song Joóc-Gà có thể cảm
thấy cơn giận của ông chủ đang dâng lên. Cuối cùng ông chủ thốt lên:
"Nhỏ, tao nói cho mày nghe cái này! Suốt đời mày ở chỗ tao, ăn no phễnh
bụng. Mày không biết thế nào là lớn lên lúc nhúc, chết đói dở cùng với
mười anh, chị, em và cả bố lẫn mẹ chui rúc trong hai căn buồng dột nát,
nóng thiêu!"
Joóc-Gà ngạc nhiên trước lời thú nhận ấy từ miệng ông chủ đang sôi
nổi nói tiếp như thể cần phải trút bỏ những hồi ức đau đớn ra khỏi hệ ý
nghĩ. "Nhỏ, tao không nhớ có lúc nào mà mẹ tao không có mang. Còn bố
tao thì chóp chép thuốc lá, suốt đời nửa say nửa tỉnh, quát tháo, chửi rủa
bọn tao không đứa nào cần cù cho vừa ý ông để làm mươi âycơ đất cằn sỏi
đá - mà bây giờ có bán năm xu một âycơ, tao cũng không thèm mua - ở chỗ
mà ông ấy tự xưng là chủ trại".
Nhìn trừng trừng vào Joóc-Gà, ông cáu kỉnh nói: "Mày muốn biết cái
gì đã thay đổi đời tao không?"
"Thưa ông, có", Joóc đáp.
"Cái ông danh sư chữa bệnh bằng lòng tin ấy đến. Ai nấy phấn khởi
chạy quanh cái lều lớn của ông ấy đang được dựng lên. Đêm mở màn, tất
cả những ai đi được, thậm chí cả những người phải cáng, phải mang, đều ùa
vào lều đó. Sau này, người ta nói ở quận Caxuel chưa bao giờ có một bài
thuyết pháp về hỏa ngục như thế và những vụ chữa bệnh thần kỳ như thế.
Tao không bao giờ quên cái cảnh hàng trăm người da trắng nhảy cẫng hò
hét. Người nọ ôm chầm lấy người kia, rầu rĩ và oằn oại và co giật. Tệ hơn
cả bất kỳ cuộc họp trại nào của dân nhọ. Nhưng giữa tất cả những hò la, ồn
ào loạn xị ấy, có một điều làm tao chú ý, cách này hay cách khác." Mexừ
Liơ nhìn Joóc-Gà. "Mày có biết gì về Kinh thánh không?"