đòi đi". Cuối cùng, đa số chịu là Tôm nói phải và cuộc họp gia đình giải
tán.
Nắm tay Airin, Tôm cùng vợ đi dưới ánh trăng về phía cánh đồng.
Nhẹ nhàng nhảy qua một hàng rào, anh bước những bước dài, ngoặt theo
một góc chín mươi độ, khoanh một hình vuông, rồi sải cẳng trở về chỗ
hàng rào anh nói: "Airin, chỗ này sắp sửa là của chúng mình!" Chị khe khẽ
nhắc lại lời anh: "của chúng mình!".
Trong vòng một tuần, các đơn vị riêng rẽ của gia đình làm phần ruộng
của mình. Một buổi sáng, Tôm đã rời khỏi lò rèn đi đến giúp sức các anh
em trai, thì chợt nhận ra một người cưỡi ngựa lũi thũi trên đường cái là lão
cựu thiếu tá kỵ binh Kêitz, quân phục tả tơi, ngựa thì tập tà tập tễnh. Kêitz
cũng nhận ra Tôm và thúc ngựa lại gần hàng rào, lão ghìm cương lại: "Ê,
nhọ, mang cho ta gáo nước!" lão gọi. Tôm tới chỗ xô nước. Anh múc đầy
gáo và bước lại đưa nó cho Kêitz. "Tình hình bi giờ thay đổi rồi, ông Kêitz
ạ", Tôm điềm đạm nói. "Sở dĩ tui mang cho ông gáo nước nầy chỉ là vì bất
kỳ ai khát, tui cũng cho uống, chớ không phải vì ông quát tháo đâu. Tui
muốn ông phải hiểu rõ điều í".
Kêitz đưa trả lại chiếc gáo. "Cho ta gáo nữa, nhọ". Tôm cầm chiếc
gáo, bỏ trở lại vào xô nước và bước đi không thèm ngoái nhìn lại.
Nhưng khi một kỵ mã khác vừa hú vừa phóng nước đại theo đường
cái, với một chiếc mũ quả dưa đen nhàu nát rất dễ nhận ra bên trên một
chiếc khăn quàng xanh bạc thếch, thì mọi người ngoài đồng ào ào chạy cả
về xóm nô: "Mẹ ơi, bố về! Bố về!" Khi con ngựa vào tới sân, các con trai
Joóc-Gà kéo phăng ông kiệu lên vai và kéo đến trước mặt Matilđa chan hòa
nước mắt.
"Làm sao mà lại khóc rống lên thế, mụ?" ông giả vờ bất bình hỏi,
đồng thời ôm ghì lấy bà như không muốn buông ra nữa, nhưng cuối cùng
ông cũng rời khỏi bà lớn tiếng bảo gia đình tập hợp lại và im lặng. "Rồi