ấy, vì Lamin vẫn hay hỏi nó về cả những chuyện nhỏ nhoi hơn cả chuyện
sâu bọ. Được, nó sẽ có ối chuyện để kể cho thằng em nghe khi nó trở về
Jufurê - đủ để lấp đầy những ngày dài ngoài bãi cùng các bạn mục đồng
của nó trong những tuần trăng tới .
Kunta cảm thấy nó và Ômôrô đang đi vào một loại xứ sở khác với
vùng mình ở. Mặt trời tà rọi chiếu xuống những đám cỏ rậm rạp chưa từng
thấy, và giữa những cây quen thuộc, lại có những khóm lớn toàn cọ và
xương rồng. Ngoài ruồi trâu, những vật duy nhất biết bay nó thấy ở đây
không phải là những chú vẹt xinh đẹp và những loài chim vẫn ríu rít hót
quanh làng Jufurê, mà là những con diều hâu lượn vòng tìm mồi cùng lũ
kền kền săn thức ăn đã chết.
Khi mặt trời như quả cầu màu da cam gần sát tới đất thì Ômôrô và
Kunta nhìn thấy một vệt khói dày bốc lên từ một làng trước mặt. Tới chỗ
cây lữ khách, ngay cả Kunta cũng có thể thấy rõ có điều gì không ổn ở đây.
Cành cây treo rất ít dải băng cầu phước, chúng tỏ dân ở đây ít có người rời
khỏi làng và phần lớn khách lữ hành từ các làng thường chọn đường qua
mé ngoài làng. Ngán thay, không có đứa trẻ nào chạy ra gặp hai cha con.
Khi đi ngang qua cây bao-báp làng, Kunta thấy nó bị cháy xém mất
một phần. Quá nửa số lều đất nó trông thấy, đều trống không, rác rưởi đầy
sân, thỏ chạy rong và chim chóc vầy trong bụi rậm. Dân làng - đa số nằm
quanh hoặc tựa cửa lều của mình - hầu hết là người già hoặc ốm đau và
mấy đứa hài nhi oe oe khóc dường như là những trẻ con duy nhất ở trong
làng. Kunta không thấy ai thuộc lứa tuổi nó - hoặc thậm chí trạc tuổi
Ômôrô.
Mấy ông già nhăn nheo yếu đuối ra đón hai du khách. Ông lão cao
tuổi nhất trong đám đập chiếc gậy chống, ra lệnh cho một bà già rụng hết
răng mang nước và mạch kê đến cho khách, có lẽ bà ta là một nô lệ, Kunta
ngồi nghĩ thầm . Rồi các ông già tranh nhau giải thích chuyện gì đã xảy đến
với làng mình, cụ nọ cướp lời cụ kia. Bọn săn nô lệ một đêm đã lén bắt