của chàng dưới những cái nhìn soi mói của dân làng. Bởi vì chàng gù lưng
và cánh tay trái có tật teo đi, cổ tay khoèo lại tựa như móng của loài chim.
Ít lâu sau dân làng dần quen với hình dáng kỳ quái của chàng, nhỏ nhung
đầy sức lực, quen dần với chiếc đầu vững chắc, tóc đen, râu rậm hơi tụt
xuống phía dưới chiếc gò bí hiểm mọc trên lưng chàng, quen dần với đôi
mắt sáng ngời, cánh tay hình móng chim, và đối với họ chàng trở thành
“anh chàng vẽ tranh kỳ quái sống ở hải đăng”.
Hình thù quái dị thường làm người có tật hận thù loài người. Nhưng
Rhayader không hề thù hận! Chàng thương yêu tha thiết con người, mọi
loài muông thú và cảnh vật thiên nhiên. Tâm hồn chàng tràn đầy lòng
thương xót và sự cảm thông. Chàng đã làm chủ được điều bất hạnh, nhưng
chàng không sao chế ngự nổi sự hắt hủi phải gánh chịu, sự hắt hủi gây ra
bởi hình thù quái dị của chàng. Sự kiện dồn chàng đến thế ẩn dật là sự thất
bại không tìm thấy nơi đâu sự đền đáp lại mối cảm tình nồng nàn từ nội
tâm chàng tuôn trào ra. Phụ nữ lẩn tránh chàng. Còn đàn ông có thể đối tốt
với chàng, nếu họ hiểu chàng. Nhưng chỉ nghĩ rằng người đó phải cố gắng
mới hiểu được chàng cũng khiến chàng tủi hổ và cũng đủ để chàng lánh xa
kẻ ấy.
Năm chàng đến vùng đồng lầy chàng đã hai mưoi bảy tuổi. Chàng đã đi
du lịch khá nhiều nơi và đã chiến đấu một cách anh dũng trước khi đi đến
quyết định rút lui ra khỏi cái thế giới mà chàng không có chỗ đứng như
những người đàn ông khác. Ngoài sự nhạy cảm của người nghệ sĩ và sự
hiền dịu đầy phụ nữ tính chứa chất trong lồng ngực căng phồng, chàng
cũng đàn ông như ai.
Trong cuộc sống ẩn dật, chàng còn có chim chóc, hội hoạ và cánh thuyền
buồm. Chàng có một chiếc thuyền dài mười sáu bộ, mà chàng sử dụng rất
tài tình. Những lúc một mình, không bị ai dòm ngó xét nét, chàng điều
khiển nó rất khéo léo bằng bàn tay có tật, chàng cũng thường vận dụng đến
hai hàm răng vững chắc để điều chỉnh những cánh buồm bập bùng khi gặp
cơn gió chướng.